Nghiên cứu - Trao đổi

Giải bài toán nhân lực cho ngành đường sắt

Yến Nhung 06/03/2025 04:00

Việc xây dựng chính sách thu hút nhân lực và nâng cao chất lượng lao động đang trở thành nhiệm vụ cấp bách để triển khai dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam.

Theo đó, ngày 30/11/2024, Quốc hội đã thông qua chủ trương đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, đi qua 20 tỉnh, thành phố với tổng chiều dài khoảng 1.541 km. Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, nhu cầu nhân lực rất lớn. Trong đó, đội ngũ quản lý dự án cần khoảng 300 - 500 người giai đoạn 2025 - 2027, và 700 - 900 người vào giai đoạn cao điểm 2028 - 2032. Nhân lực tư vấn khảo sát, thiết kế, giám sát cao điểm nhất vào 2026 - 2028, với khoảng 1.200 - 1.300 người. Đây là nhóm nhân lực yêu cầu trình độ cao với 100% có bằng đại học và một phần nhỏ có trình độ tiến sĩ chuyên ngành.

luat-duong-sat.jpg
Theo báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, nhu cầu nhân lực rất lớn - Ảnh: ITN

Đặc biệt, khối tham gia xây dựng là nhóm có nhu cầu nhân lực lớn nhất, lên tới 220.000 - 240.000 người. Tại thời kỳ cao điểm, cần 18.000 - 20.000 kỹ sư, với 20 -30% trong số đó là kỹ sư chuyên ngành xây dựng đường sắt. Khối nhân lực khai thác vận hành, vận hành chạy tàu và bảo trì hệ thống, từ năm 2035 - 2036 cần khoảng 13.880 người. Như vậy, để triển khai xây dựng, vận hành tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, cần khoảng 260.000 nhân lực.

Mặc dù, nhu cầu nguồn nhân lực và làm chủ công nghệ lõi trong lĩnh vực đường sắt hiện đại hiện rất lớn, nhưng so với các ngành kỹ thuật, kinh tế khác, sức hút của ngành này với xã hội vẫn còn hạn chế, không ít ý kiến cho rằng, cần có đề án riêng về đào tạo nhân lực cho lĩnh vực đặc thù này, cần có cơ chế đặt hàng đào tạo...

Nêu quan điểm về vấn đề này, ông Trần Thiện Cảnh, Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam nhận định, nguồn nhân lực đường sắt hiện nay của Việt Nam mới chỉ đáp ứng nhu cầu cơ bản của hệ thống đường sắt hiện hữu. Với nhu cầu phát triển của ngành đường sắt trong thời gian tới, Nhà nước cần có các chính sách phù hợp để mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, ở nhiều mảng hoạt động quản lý, xây dựng, khai thác - vận hành…

Quá trình triển khai thi hành Luật Đường sắt 2017 đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế đòi hỏi phải sớm sửa đổi - Ảnh: ITN
Cần có đề án riêng về đào tạo nhân lực cho lĩnh vực đặc thù này - Ảnh: ITN

Theo ông Cảnh, toàn bộ nhân lực xây dựng, vận hành các tuyến đường sắt mới, đặc biệt là tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đều phải qua đào tạo cơ bản, tức là 20.000 - 25.000 nhân sự trình độ đại học trở lên. Hiện tại, năng lực của các trường đại học trong nước đáp ứng được yêu cầu nhân lực cho dự án. Tuy nhiên, vấn đề là chất lượng đào tạo.

"Để thu hút được người học chất lượng đăng ký các chuyên ngành phục vụ đường sắt tốc độ cao, ngân sách nhà nước cần bố trí khoảng 2.000 tỉ đồng (tương đương 80 triệu USD) để ngành học này trở nên hấp dẫn hơn. Đây là khoản tiền để chi cho các việc đào tạo cán bộ giảng dạy, đặc biệt là chuyên ngành chuyên sâu đường sắt tốc độ cao; cung cấp 4.000 suất học bổng để thu hút người giỏi; trang bị phòng thí nghiệm, trang thiết bị mô phỏng thực hành", ông Cảnh nhấn mạnh.

Đồng tình với quan điểm nêu trên, PGS-TS Nguyễn Văn Hùng, Hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông vận tải cho biết, nhà trường xác định việc duy trì đào tạo nhân lực cho hệ thống đường sắt quốc gia không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn mà còn là trách nhiệm chính trị, xã hội của mọi cơ sở đầu ngành trong lĩnh vực giao thông vận tải của đất nước.

Dù nhu cầu nhân lực phục vụ ngành đường sắt hiện đại rất lớn nhưng sức hút của ngành với xã hội còn hạn chế. Phần lớn sinh viên theo học ngành này lựa chọn hình thức học văn bằng 2, tại chức hoặc ngắn hạn. Quy mô thí sinh chọn vào các chương trình đào tạo đường sắt chính quy chưa cao. Đầu tư của nhà nước cho đào tạo và phát triển khoa học công nghệ cho đường sắt còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành.

“Cần cụ thể hóa Nghị quyết 57 cho phát triển ngành đường sắt thông qua cơ chế hợp tác, Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất phục vụ nghiên cứu thông qua các phòng nghiên cứu trọng điểm quốc gia với cơ chế cho phép nhập khẩu trực tiếp các thiết bị tiên tiến ở các nước phát triển. Nhà trường, các viện nghiên cứu tập trung nguồn lực con người tham gia tổ chức nghiên cứu làm chủ công nghệ lõi. Hợp tác với doanh nghiệp, ưu tiên ứng dụng sản phẩm công nghệ trong nội địa sản xuất để hoàn thiện và lan tỏa các công nghệ lõi đường sắt đến xã hội”, Hiệu trưởng Trường Đại học Giao thông vận tải đề xuất.

Yến Nhung