DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP 2025: Trợ lực cho doanh nghiệp vượt thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh
Được sự chỉ đạo của VCCI, Tạp chí DĐDN tổ chức Diễn đàn Doanh nghiệp 2025 với chủ đề: Trợ lực cho doanh nghiệp vượt thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh vào chiều 17/4/2025.
Năm 2025 là năm có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đặt ra nhiều thách thức đan xen cho nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh đó, nhằm ứng phó linh hoạt, hiệu quả, đưa ra những giải pháp trợ lực cho doanh nghiệp vượt mọi thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh, được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức:
DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP 2025:
TRỢ LỰC CHO DOANH NGHIỆP VƯỢT THÁCH THỨC, NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
Thời gian: 14h00 -17h00, thứ Năm, ngày 17/04/2025
Địa điểm: Phòng 201, Trung tâm Hội nghị 37 Hùng Vương (35 Hùng Vương, quận Ba Đình, Hà Nội)

Tham dự Diễn đàn có: Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Ông Phan Đức Hiếu - Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế tài chính của Quốc hội khóa XV; Bà Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương); Ông Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo Liên ngành Hội nhập Quốc tế về Kinh tế; Ông Nguyễn Trùng Khánh – Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam; Ông Nguyễn Bích Lâm – Nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, nay là Cục Thống kê; Ông Nguyễn Quốc Hiệp - Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam (VACC); Ông Ngô Sỹ Hoài - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam; Ông Nguyễn Quốc Hùng – Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng; Ông Đỗ Văn Vẻ - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Thái Bình; Ông Nguyễn Văn Cường – Phó Chủ tịch thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc.
Đặc biệt, Diễn đàn có sự tham gia của lãnh đạo, đại diện các sở ngành, đại diện các hiệp hội doanh nghiệp như: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Thành phố Hà Nội, Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ TP Hà Nội, Hiệp hội Du lịch Việt Nam; Hiệp hội DN hàng không Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp các địa phương, cùng sự tham gia của đại diện các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các chuyên gia, nhà nghiên cứu.
Về phía Ban Tổ chức có Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Ban tổ chức đặc biệt cảm ơn các nhà báo/phóng viên các cơ quan thông tấn báo chí quan tâm, tham dự và đưa tin về Diễn đàn.
Ban tổ chức trân trọng cảm ơn: Tổng Công ty Khí Việt Nam - Công ty Cổ phần (PV GAS); Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN); Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam (VietinBank); Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex); Tổng công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội (Habeco); Tập đoàn Nước giải khát Tân Hiệp Phát; Công ty Slasify đã đồng hành cùng chương trình.

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, Diễn đàn Doanh nghiệp thường niên năm nay diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động.
"Kinh tế thế giới đối mặt với rất nhiều rủi ro, thách thức, đặc biệt là căng thẳng địa chính trị, chiến tranh thương mại - công nghệ, bảo hộ thương mại gia tăng, khiến giá cả hàng hóa, lạm phát tăng trở lại, dòng chảy thương mại có nguy cơ gián đoạn, đứt gãy khiến tăng trưởng toàn cầu chậm lại, rủi ro an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực…", ông Hoàng Quang Phòng chia sẻ.
Theo đánh giá của nhiều tổ chức quốc tế, chính sách thuế đối ứng của Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố ngày 2/4 và sau đó cùng với phản ứng của các nước đã, đang và sẽ tác động mạnh mẽ đến kinh tế, thương mại, đầu tư và thị trường tài chính toàn cầu, đặc biệt tác động nhiều đến các nước có thặng dư thương mại lớn với Mỹ, trong đó có Việt Nam.
Ở góc nhìn trong nước, số liệu từ Cục Thống kê, Bộ Tài chính cho thấy, tăng trưởng kinh tế quý I năm 2025 đạt 6,93%. Tính chung quý I/2025, cả nước có hơn 72,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước; bình quân một tháng có hơn 24,3 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
“Tuy vậy, theo khảo sát của VCCI trên quy mô toàn quốc cho thấy chỉ 32% doanh nghiệp cho biết sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh trong 2 năm tiếp theo”, Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh.
Đồng thời cho biết, mặc dù đã có gần 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (chiếm đến 98%) và chỉ có khoảng 2% các doanh nghiệp lớn.

Ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh, tất cả điều đó cho thấy, cộng đồng doanh nghiệp nói chung còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực doanh nghiệp còn chịu nhiều tác động bất lợi của bối cảnh khách quan, xung đột địa chính trị, đứt gẫy các chuỗi cung ứng, nguyên vật liệu đầu vào.
Do đó, để có thể bứt phá vào năm 2025, Phó Chủ tịch VCCI cho rằng, việc cải cách thể chế kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy và hỗ trợ doanh nghiệp sẽ là những "chìa khóa" then chốt. Không chỉ là tăng khả năng hấp thụ vốn cho doanh nghiệp, việc phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân để từng bước làm chủ công nghệ lõi, tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu là yêu cầu quan trọng được đặt ra thời gian tới.
“Thực tế thời gian qua, để hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều quyết sách để phát triển doanh nghiệp, hướng tới bảo đảm mục tiêu tăng trưởng cả nước năm 2025 đạt 8% trở lên. Tuy vậy, trong một thế giới biến động, các doanh nghiệp cũng cần thêm nhiều trợ lực hơn nữa từ chính quyền các cấp”, ông Hoàng Quang Phòng nhận định.

Cũng theo Phó Chủ tịch VCCI, hiện nay, Chính quyền Mỹ đã thông báo tạm hoãn 90 ngày trước khi áp thuế đối ứng với các quốc gia trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên thời gian không dài và thách thức vẫn còn phía trước, đặc biệt với các ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Do đó, việc hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới, đẩy mạnh xuất khẩu và thúc đẩy tiêu dùng trong nước đang được đặt ra những vấn đề cấp bách.
Nhắc tới bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân - đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” của Tổng Bí thư Tô Lâm, Phó Chủ tịch VCCI cho biết, bài viết đã đánh giá những thành công trên chặng đường gần 40 năm đổi mới có sự đóng góp rất quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân. Sự vươn lên mạnh mẽ của nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam không chỉ làm chủ thị trường nội địa mà còn khẳng định thương hiệu trên thị trường quốc tế.
“Tuy nhiên, tôi và các vị ngồi đây chắc hẳn cùng chung nhận định, kinh tế tư nhân nói chung và doanh nghiệp tư nhân nói riêng vẫn đối mặt với nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, không thể bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh. Nhiều hộ kinh tế cá thể vẫn theo nếp kinh doanh cũ, thiếu động lực phát triển thành doanh nghiệp, thậm chí "không muốn lớn"”, ông Hoàng Quang Phòng chia sẻ.
Đồng thời cho biết, bên cạnh đó, doanh nghiệp tư nhân còn gặp nhiều rào cản trong tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là vốn tín dụng, đất đai, tài nguyên và nhân lực chất lượng cao, nhất là trong các ngành công nghệ, kỹ thuật và tài chính. Hệ thống pháp luật vẫn còn chồng chéo, môi trường kinh doanh còn trở ngại, thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà dễ gây thêm chi phí và tiềm ẩn rủi ro rất cần được cải thiện trong thời gian sớm nhất.
“Mặt khác, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Chính phủ chưa thực sự đi vào cuộc sống, đối tượng thụ hưởng còn khiêm tốn, tính công bằng trong tiếp cận các loại nguồn lực cho phát triển chưa rõ nét”, Phó Chủ tịch VCCI nhận định.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế cho thấy nhóm các doanh nghiệp lớn có vai trò quan trọng, là nòng cốt dẫn dắt sự phát triển của các ngành và cả nền kinh tế. Chính vì vậy, ông Hoàng Quang Phòng cho rằng, bên cạnh mục tiêu phát triển 2 triệu doanh nghiệp đến năm 2030, Đại hội XIII của Đảng cũng khẳng định “Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế”. Nghị quyết 41-NQ/TW cũng đề ra nhiệm vụ phải “phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh ngang tầm mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong thời kỳ mới, xây dựng đội ngũ doanh nhân dân tộc”.
Hiện nay trong cả nước có khoảng 700 Hiệp hội, Câu lạc bộ doanh nghiệp, doanh nhân trong đó có khoảng 100 hiệp hội có phạm vi hoạt động toàn quốc, còn lại là phạm vi cấp tỉnh huyện; 28 hiệp hội ngành nghề. Hầu hết các doanh nghiệp đang hoạt động đều tham gia một hoặc một số tổ chức hội doanh nghiệp, qua đó tạo ra mạng lưới liên kết giữa các doanh nghiệp. Vai trò liên kết doanh nghiệp trong các Hiệp hội ngày càng được nâng cao.

Để góp phần xây dựng cộng đồng doanh nghiệp ngày một lớn mạnh, Phó Chủ tịch VCCI nhấn mạnh: “Diễn đàn Doanh nghiệp 2025 với chủ đề: Trợ lực cho doanh nghiệp vượt thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh với mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các quý vị. Chính vì mục tiêu đó, tôi ghi nhận sự nỗ lực của Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp khi tổ chức Diễn đàn ngày hôm nay”.
Đồng thời tin tưởng rằng, thông qua Diễn đàn, các chuyên gia, doanh nghiệp, cơ quan báo chí truyền thông sẽ cùng chung tay để tìm kiếm những giải pháp đồng bộ, đột phá để góp phần cùng cả nước đạt được mục tiêu đề ra, để Việt Nam có thể hội nhập và hội nhập thành công.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Phan Đức Hiếu - Uỷ viên thường trực Uỷ ban Kinh tế tài chính của Quốc hội nhấn mạnh, bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước đang thay đổi, cải cách thể chế không chỉ hướng đến yêu cầu cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh như những giai đoạn trước mà cần tạo những đột phá mạnh mẽ.

Chia sẻ với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, theo ông Phan Đức Hiếu, đây là thời điểm doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, bao gồm khó khăn từ thể chế và phi thể chế.
“Thể chế là công cụ duy nhất và cần thiết thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Tuy nhiên, nếu thể chế không tốt có nguy cơ tạo những rào cản tác động đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài thủ tục hành chính mà chúng ta vẫn nhìn thấy là các loại phí, lệ phí; chi phí tuân thủ lớn nhưng đôi khi không được nhận diện; chi phí cơ hội và những chi phí không chính thức cho doanh nghiệp. Vì vậy, cải cách thể chế không chỉ là cắt giảm thủ tục hành chính mà còn là cắt giảm chi phí tuân thủ” - ông Phan Đức Hiếu khẳng định.
Cơ hội và dư địa cải cách thể chế vì thế là rất lớn. Ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh đến có 3 việc cần làm ngay. Đó là nâng cao chất lượng quy định hiện hành - yêu cầu cấp thiết và quan trọng; nâng cao hiệu quả thực thi quy định pháp luật theo đúng tinh thần của các bộ luật và đảm bảo tính thống nhất và chất lượng các quy định pháp luật được ban hành mới.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu và trong nước thay đổi, ông Phan Đức Hiếu cho rằng, cải cách thể chế không chỉ hướng đến cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh mà cần tạo đột phá mạnh mẽ. Nhắc lại những kết quả tích cực từ việc thực thi Luật Doanh nghiệp năm 2020, ông Phan Đức Hiếu nhấn mạnh việc cần thiết có những cải cách mang tính chất đột phá cả từ tư duy và biện pháp thực thi.
Giai đoạn sau đó, thực thi Luật Doanh nghiệp 2020 với nhiều thay đổi tư duy khi doanh nghiệp được phép làm những gì mà pháp luật không cấm cùng với việc bãi bỏ 161 giấy phép, thời gian thành lập doanh nghiệp từ 15-30 ngày đã thổi bùng khí thế kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp. Chỉ trong 5 năm, từ năm 2020 - 2025 số lượng doanh nghiệp thành lập gấp 10 lần so với trước đó, tạo nền tảng để có lực lượng doanh nghiệp đông đảo như hiện nay.

Với tinh thần cần có cải cách đột phá, ông Phan Đức Hiếu đề xuất một số kiến nghị.
Thứ nhất, trên cơ sở rà soát các quy định pháp luật cho cải cách thể chế, thay vì sửa chữa nên ưu tiên bãi bỏ các quy định, văn bản, nghị định không phù hợp.
Thứ hai, cần có cơ chế bền vững cho cải cách thể chế. Trên thế giới, có 4 hình thái cải cách thể chế thì Việt Nam đã trải qua 3 hình thái là ban hành thể chế tốt; cải cách đơn lẻ; triển khai ở một số ngành, lĩnh vực theo sáng kiến của một hoặc một số cơ quan. Tuy nhiên, cải cách rất khó khăn nếu chỉ xuất phát (đơn lẻ) từ chính các cơ quan thực thi pháp luật.
Vì lý do đó, cần có cơ chế bền vững hướng đến thực hiện hình thái thứ 4 của cải cách thể chế. Đó là: đưa cải cách thể chế trở thành văn hóa lập pháp, hệ thống, không còn phụ thuộc vào cá nhân, tổ chức nào.
Dẫn kinh nghiệm từ nhiều nước trên thế giới như Hàn Quốc, Úc, Anh, Mỹ…, ông Phan Đức Hiếu thông tin: các quốc gia này đều thành lập cơ quan giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế (ROB). Cơ quan này tại Anh có quyền bác đề xuất chính sách nếu không đạt chất lượng; tại Mỹ gửi lại đề xuất chính sách nếu không đạt chất lượng, kèm theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung.
Từ thực tế đó, ông Phan Đức Hiếu đề xuất, trong thời gian tới, Chính phủ nên thành lập cơ quan chuyên môn giám sát và thúc đẩy cải cách thể chế có thẩm quyền. Cơ quan này có các chức năng chính như kiểm soát chất lượng quy trình soạn thảo; xác định các lĩnh vực trọng tâm để nâng cao chất lượng quy định; nâng cao chất lượng quy định một cách có hệ thống; đầu mối, phối hợp trong soạn thảo, ban hành; xây dựng bộ công cụ, hướng dẫn, hỗ trợ, đào tạo, thực tiễn mới.
Phát biểu tại diễn đàn, bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Chiến lược (Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương) đánh giá, trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường như hiện nay, liên kết doanh nghiệp càng trở nền quan trọng hơn để mở rộng và đa dạng hóa thị trường, kết nối và hiện thực hóa các mô hình kinh doanh mới, chia sẻ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, giảm thiểu rủi ro và ứng phó hiệu quả với các diễn biến bất lợi, nhờ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Theo bà Minh, các hình thức liên kết hiện nay đang ngày một đa dạng hơn, bao gồm hợp tác doanh nghiệp cùng ngành (liên kết ngang); hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng (liên kết dọc); đầu tư, góp vốn, mua bán, sáp nhập và hình thành các nhóm công ty, ký kết hợp tác chiến lược nhằm chia sẻ thị trường, thông tin, nghiên cứu và phát triển.

Tuy vậy, bà Minh nhận định, nhìn chung doanh nghiệp Việt Nam vẫn thiếu sự liên kết chặt chẽ có tính hệ thống và bài bản.
Việt Nam đã có một số doanh nghiệp lớn tham gia cạnh tranh quốc tế, tham gia một số khâu, công đoạn của chuỗi giá trị sản xuất khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mạng lưới doanh nghiệp liên kết vẫn bị giới hạn chủ yếu trong phạm vi số ít các doanh nghiệp cùng hệ thống sở hữu; đồng thời còn thiếu các doanh nghiệp lớn, cả doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân, có khả năng kết nối, làm chủ chuỗi giá trị và dẫn dắt hệ sinh thái doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước để phát triển các ngành kinh tế chiến lược quốc gia có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Bên cạnh đó, bà Minh cho rằng, hầu hết doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn hoạt động đơn lẻ và chưa chủ động tham gia vào các quan hệ đối tác, liên kết. Trong những giai đoạn kinh tế khó khăn, chuỗi cung ứng đứt gãy..., các doanh nghiệp trong nước không tạo được vòng tuần hoàn chặt chẽ để cùng liên kết, cung ứng, chia sẻ và tối đa hóa đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, cùng nhau phát triển.
Mặt khác, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu do các doanh nghiệp FDI dẫn dắt. Bà Minh chỉ ra, số lượng doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia và doanh nghiệp FDI chỉ đạt khoảng 300 trên tổng số hơn 1.800 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, trong đó chủ yếu cung ứng hàng hóa và dịch vụ có giá trị gia tăng thấp hoặc đơn giản.

Số liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê giai đoạn 2018-2024 cho thấy có trên 97% trả lời không có hoạt động liên quan đến xuất khẩu và 99% doanh nghiệp không có gia công hoặc sản xuất hàng hóa cho nước ngoài. Một nghiên cứu của VCCI năm 2022 cũng cho thấy, một nửa doanh nghiệp khảo sát trả lời (53,3%) không đặt mục tiêu gì khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, tức là thiếu định hướng rõ ràng.
Bà Minh đánh giá, năng lực nội tại của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Năng lực sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ của phần lớn doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối hạn chế, từ cạnh tranh về giá, chất lượng cho đến khả năng giao hàng đúng thời hạn, thực hiện đơn hàng lớn, tiếp cận kênh phân phối. Các doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn dịch COVID-19, qua đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, và khả năng thích ứng và liên kết với bên ngoài.
Trong mối quan hệ với doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ để cùng tham gia chuỗi giá trị do một số nguyên nhân quan trọng.
Liên quan đến vấn đề thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết doanh nghiệp còn bất cập. Chính sách phát triển doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi nhất để doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh để tham gia các liên kết doanh nghiệp, hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng trong nước, khu vực và quốc tế. Hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa còn thấp.
Trong khi đó, Việt Nam còn thiếu chính sách đặc thù về thúc đẩy các hình thức liên kết doanh nghiệp, nhất là chính sách ưu đãi về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng sản xuất kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng. Quy định hiện hành chưa đủ thuận lợi cho hoạt động tiếp cận các hình thức cấp vốn theo chuỗi giá trị.
Do đó, bà Minh kiến nghị, trong thời gian tới cần tháo gỡ điểm nghẽn về thể chế, pháp luật, môi trường kinh doanh. Theo đó, quyết liệt cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh và tối ưu hóa quy trình giải quyết thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông hiện đại và các công nghệ điển hình.
Mặt khác, cần xây dựng, phát triển, hoàn thiện hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, an ninh, an toàn, hiệu quả để thực hiện quản lý nhà nước trên môi trường số và thực hiện các mục tiêu cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ cho các chủ thể kinh doanh. Khẩn trương hoàn thiện, kết nối, chia sẻ đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu các ngành, cơ sở dữ liệu doanh nghiệp để hình thành một hệ thống thông tin kết nối và thống nhất về đăng ký kinh doanh, cấp phép, chứng chỉ hành nghề, điều kiện kinh doanh, thuế, hóa đơn, báo cáo tài chính,...
Bên cạnh đó, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp hình thành chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng bằng chính sách ưu đãi vượt trội về thuế, tiếp cận vốn, bảo lãnh tín dụng, mặt bằng kinh doanh theo mức độ tham gia liên kết.
Theo bà Minh, việc điều chỉnh chính sách thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng nâng cao điều kiện ràng buộc về tỷ lệ nội địa hóa và tỷ lệ sản phẩm, dịch vụ được cung cấp bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhà nước đầu tư và có cơ chế ưu đãi đầu tư xây dựng các khu công nghiệp chuyên biệt cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; Sớm hình thành và phát triển các khu thương mại tự do làm cứ điểm chiến lược để các doanh nghiệp phát triển tập trung và phát triển theo chuỗi liên kết ngành, gắn với các mô hình kinh doanh mới (kinh tế số, kinh tế tuần hoàn,...).
Đồng thời, cần thúc đẩy hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quy mô lớn đóng vai trò liên kết, quy tụ, dẫn dắt doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước ở một số ngành, lĩnh vực có thể đem lại vị thế quan trọng của quốc gia trong chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu.
"Trước mắt, cần thúc đẩy phát triển thực chất đối với công nghiệp bán dẫn, điện tử tiên tiến, phát triển phần mềm và trí tuệ nhân tạo, nông nghiệp, công nghệ xanh và năng lượng tái tạo, các dịch vụ có tính kết nối (logistics, ICT) và hạ tầng thông minh. Ưu tiên mua sắm công đối với sản phẩm, dịch vụ của các tập đoàn kinh tế tư nhân Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn kinh tế tư nhân tham gia thực hiện các dự án đầu tư công", bà Minh nói.
Cuối cùng, bà Minh cho rằng, cần tăng cường kết nối giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tập trung vào thực hiện một số giải pháp đồng bộ như: Phát triển nền tảng số của Việt Nam để thúc đẩy kết nối doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp chia sẻ thông tin, tìm kiếm đối tác và tận dụng nguồn lực chung. Xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu, giúp doanh nghiệp dễ dàng truy cập thông tin thị trường, xu hướng ngành và cơ hội hợp tác. Củng cố, đổi mới mô hình cụm liên kết ngành giữa các doanh nghiệp khu vực tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp FDI theo chuỗi giá trị.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Trịnh Minh Anh - Chánh Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế cho biết, Việt Nam là nền kinh tế mở, có độ mở rất cao, từ 1986 khi mở cửa, Việt Nam đã tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu với nhiều hiệp định thương mại tự do… tính đến năm 2025, tổng số các FTA Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán lên tới 20 FTA, với 16 FTA đang thực thi, trong đó có các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và RCEP. Các hiệp định này đã mở ra thị trường rộng lớn với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoáng 90% GDP toàn cầu.
Những con số minh chứng cho thành công của việc thực thi FTA là rất ấn tượng. Trong ba năm gần đây, Việt Nam liên tục nằm trong top 20 quốc gia có quy mô thương mại quốc tế lớn nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khoảng 12,5% mỗi năm. Năm 2024, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt mốc 786 tỷ USD, trong đó xuất khẩu vượt 405 tỷ USD, thặng dư thương mại gần 25 tỷ USD, ghi nhận xuất siêu năm thứ 9 liên tiếp. Nhờ đó, Việt Nam đứng thứ 17 trong 20 nền kinh tế có quy mô thương mại lớn nhất thế giới.

Đóng góp vào kết quả trên, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường đã ký FTA như EU, Canada, và các nước CPTPP đều ghi nhận tăng trưởng tích cực, (ví dụkim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong năm 2024 đạt 52,1 tỷ USD, tăng 19,3% so với năm 2023.kim ngạch xuất khẩu sang Canada trong năm 2024 đạt khoảng 7,5 tỷ USD, tăng 22,7% so với năm 2023). Tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan theo FTA của doanh nghiệp Việt Nam đạt khoảng 37% trong năm 2024.
“Các FTA không chỉ giúp đa dạng hóa thị trường, giảm sự phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống, mà còn tạo điều kiện thu hút nguồn vốn FDI chất lượng cao từ các đối tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản và Singapore; tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Trịnh Minh Anh chia sẻ.
Đồng thời cho rằng, dù đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng việc khai thác các FTA vẫn chưa tương xứng với tiềm năng do nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, vẫn thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về các quy tắc xuất xứ, thủ tục ưu đãi thuế quan; các rào cản phi thuế ngày càng gia tăng như yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường, lao động… đặt ra thách thức lớn cho khả năng đáp ứng của hàng Việt; tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành còn thấp, ảnh hưởng đến khả năng tận dụng ưu đãi FTA đã ký.
Cũng theo ông Trịnh Minh Anh, bối cảnh thương mại toàn cầu hiện nay đang có nhiều biến động. Xung đột địa chính trị, biến đổi khí hậu, xu hướng bảo hộ gia tăng và đặc biệt là việc Hoa Kỳ có khả năng áp dụng một số biện pháp thuế đối ứng với hàng xuất khẩu từ các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã và đang đặt ra những thách thức lớn… tuy nhiên, việc tạm hoãn thuế 90 ngày và áp mức 10% trong thời gian đàm phán tạo cơ hội cho Việt Nam thương thảo, đa dạng hóa thị trường (EU, Nhật Bản, ASEAN) và tái cấu trúc chuỗi cung ứng để giảm thiểu rủi ro.
“Trước tình hình này, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương đã chủ trì, thành lập ngay Đoàn đàm phán Chính phủ về các vấn đề thương mại với Hoa Kỳ và Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành kinh tế là cơ quan phụ trách việc tổ chức, điều phối đoàn đàm phán. Trước mắt, chúng ta sẽ đưa ra phương án thương thảo với Hoa Kỳ để đạt kết quả tốt nhất… tuy nhiên, giải pháp để đat được mục tiêu bền vững và lâu dài trong tăng trưởng xuất khẩu thì đòi hỏi chúng ta phải hành động quyết liệt hơn để khai thác hiệu quả các FTA hiện có, mở rộng thị trường, giảm phụ thuộc vào một số thị trường truyền thống và thích nghi với những chuẩn mực thương mại ngày càng cao”, ông Trịnh Minh Anh bày tỏ.
Và trước thực tiễn đã nêu, để doanh nghiệp tận dụng hiệu quả các FTA, ông Trịnh Minh Anh khuyến nghị:
Doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ các quy định về thuế quan, quy tắc xuất xứ (C/O), tiêu chuẩn kỹ thuật, và các cam kết phi thương mại (lao động, môi trường, phát triển bền vững) trong từng FTA (như CPTPP, EVFTA, UKVFTA); tham dự các hội thảo, khóa học do Bộ Công Thương, VCCI hoặc hiệp hội ngành hàng tổ chức để nắm bắt thông tin và cách thức tận dụng ưu đãi; Khai thác Cổng thông tin FTA của Bộ Công Thương (ftaportal.moit.gov.vn) để tra cứu biểu thuế, quy định, và hướng dẫn thực thi FTA; cập nhật thông tin cảnh báo sớm về các vụ việc phòng vệ thương mại từ Bộ Công Thương…
Bên cạnh đó, cần tối ưu hóa quy tắc xuất xứ (C/O), đảm bảo sản phẩm đáp ứng quy tắc xuất xứ để hưởng ưu đãi thuế quan, như tỷ lệ nội địa hóa hoặc xuất xứ thuần túy theo quy định của từng FTA; liên kết với nhà cung cấp trong nước hoặc khu vực FTA để tăng tỷ lệ nguyên liệu nội khối, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu ngoài khu vực.
Nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua cải thiện chất lượng sản phẩm: Đầu tư vào công nghệ, đổi mới mẫu mã, và đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm của thị trường FTA (như tiêu chuẩn xanh của thị trường EU); tham gia các hiệp hội ngành hàng; phối hợp với các hiệp hội để nắm bắt thông tin thị trường, giải quyết khó khăn (như chi phí vận chuyển, rào cản kỹ thuật) và các vụ tranh chấp quốc tế; ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại…
“FTA chính là cơ hội để Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới. Nhưng việc khai thác các lợi thế của FTA lại phụ thuộc vào khả năng của từng doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp sẽ tìm được hướng đi của riêng mình, tận dụng hiệu quả nhất những cơ hội từ FTA, góp phần phát triển bền vững nền kinh tế đất nước”, ông Trịnh Minh Anh nhấn mạnh.

Điều phối tại phiên thảo luận, Nhà báo Nguyễn Linh Anh - Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp bày tỏ sau nhiều ý kiến tham luận của các diễn giả, Ban tổ chức mong muốn được nghe ý kiến từ các doanh nghiệp, Hiệp hội doanh nghiệp, đặc biệt những ngành đang gặp khó khăn. Đồng thời với những ngành mặc dù đang có sự tăng trưởng tốt nhưng cũng cần thêm trợ lực để phát triển mạnh mẽ hơn.
.jpg)
Phát biểu tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Trùng Khánh, Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Việt Nam cho biết, để đẩy nhanh tăng tốc phát triển du lịch, đạt được các mục tiêu đề ra năm 2025 đón 22-23 triệu lượt khách quốc tế và đạt 120-130 triệu lượt khách nội địa theo tinh thần Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 05/02/2025 của Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế theo phương châm “kiến tạo phát triển”. Bộ VHTTDL đang triển khai rà soát, sửa đổi Luật Du lịch và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn trong thực tiễn, đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, đơn giản hóa quy trình cấp phép để giảm thiểu chi phí, thời gian cho doanh nghiệp.
Song song đó, Bộ sẽ phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng như Bộ Ngoại giao, Bộ Công an để tham mưu, đề xuất mở rộng chính sách miễn thị thực, cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh - đây là những yếu tố then chốt giúp tạo thuận lợi trong việc thu hút khách quốc tế. Đồng thời, phối hợp với ngành Hàng không để đề xuất mở rộng mạng lưới kết nối với các thị trường trọng điểm, cũng như làm việc với các ngành Nông nghiệp, Y tế, Đường sắt để phát triển mạnh mẽ các loại hình du lịch đặc thù như du lịch nông nghiệp, du lịch chăm sóc sức khỏe, và du lịch trải nghiệm bằng đường sắt - nhằm đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh cho du lịch Việt Nam.
Thứ hai, Đổi mới, đa dạng hóa các sản phẩm du lịch; triển khai các chương trình kích cầu du lịch, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và trải nghiệm du lịch.
Bộ BHTTDL sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương, đối tác và doanh nghiệp xây dựng các chương trình kích cầu du lịch toàn quốc, tập trung vào các gói sản phẩm trọn gói hấp dẫn, chất lượng cao, giá thành hợp lý, hướng đến môi trường du lịch an toàn, thân thiện và văn minh.
Bên cạnh đó, tập trung xây dựng và quảng bá các sản phẩm du lịch đặc sắc gắn với những sự kiện chính trị - văn hóa trọng đại của đất nước như Lễ kỷ niệm 80 năm thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ niệm 50 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cùng các lễ hội truyền thống, sự kiện văn hóa lớn tại các địa phương nhằm tăng cường thu hút khách quốc tế.
Đặc biệt, Bộ đang triển khai chương trình kích cầu du lịch trong năm 2025 và các chương trình thu hút khách du lịch đối với thị trường Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Séc và Liên bang Thụy Sỹ, đồng thời thực hiện hiệu quả Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ về chính sách miễn thị thực, mở rộng thị trường quốc tế và đa dạng hóa nguồn khách đến Việt Nam.

Thứ ba, đổi mới các phương thức xúc tiến, quảng bá du lịch theo các thị trường mục tiêu, trọng điểm. Tăng cường quảng bá tại các thị trường trọng điểm thông qua việc tham gia các hội chợ du lịch lớn như ITB Berlin, WTM London, TRAVEX Malaysia, World Expo Osaka, cùng các chương trình kết nối doanh nghiệp tại Trung Quốc, Bắc Mỹ, Ấn Độ, Nga và Tây Âu. Đẩy mạnh quảng bá qua sự kiện văn hóa - điện ảnh tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên hoan phim Cannes và các nền tảng số như CNN, Google, YouTube.
Trong nước, tập trung tổ chức Năm Du lịch Quốc gia Huế 2025, các hội chợ quốc tế (VITM, ITE) và các sự kiện lớn của đất nước, qua đó gắn xúc tiến du lịch với các hoạt động văn hóa, lễ hội, hội nghị quốc tế. Song song là truyền thông đa kênh trên nền tảng số, mạng xã hội và ấn phẩm chuyên đề, nhằm nâng cao hình ảnh du lịch Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. Tập trung phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu ngành du lịch và kết nối liên thông hệ thống thông tin phục vụ công tác quản lý, điều hành, hoạch định chính sách và hỗ trợ doanh nghiệp, du khách trong nước và quốc tế. Đồng thời, đẩy mạnh phát triển các nền tảng số ở cấp quốc gia nhằm hỗ trợ đồng bộ cho các địa phương và doanh nghiệp, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số toàn ngành một cách hiệu quả và thống nhất.
Thứ năm, tăng cường công tác quản lý điểm đến. Bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo các địa phương nâng cao hiệu quả quản lý điểm đến, chú trọng bảo vệ cảnh quan, vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm và đảm bảo an ninh cho du khách. Việc xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện, mến khách là yếu tố then chốt để thu hút và giữ chân khách du lịch.
Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm. Phối hợp với cơ quan chức năng rà soát, ngăn chặn các website, fanpage giả mạo và xử lý nghiêm các hành vi lừa đảo, đảm bảo uy tín của điểm đến và quyền lợi của du khách.
Sự phát triển của ngành du lịch không thể thiếu vai trò tiên phong và năng động của cộng đồng doanh nghiệp. Cục trưởng Cục Du lịch Quốc gia Nguyễn Trùng Khánh cũng đề xuất một số giải pháp để các doanh nghiệp có thể vượt qua khó khăn và đóng góp vào sự phát triển chung của ngành.
Một là đổi mới sáng tạo trong phát triển sản phẩm du lịch. Doanh nghiệp cần phát triển sản phẩm du lịch đặc trưng gắn liền với bản sắc văn hóa, lịch sử, và tài nguyên địa phương. Các loại hình du lịch như sinh thái, cộng đồng, thể thao mạo hiểm, và chăm sóc sức khỏe cần được đa dạng hóa để phục vụ nhiều phân khúc khách. Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ giúp cá nhân hóa trải nghiệm khách hàng sẽ tăng cường sự cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của du khách hiện đại.
Hai là chuyển đổi số trong quản lý và kinh doanh. Các doanh nghiệp du lịch cần tích cực ứng dụng công nghệ số trong quản lý nội bộ, marketing, bán hàng, và chăm sóc khách hàng. Việc áp dụng các nền tảng số không chỉ giúp tối ưu chi phí mà còn mang lại trải nghiệm hiện đại cho du khách. Kết nối vào hệ sinh thái du lịch số sẽ giúp tăng khả năng tiếp cận thị trường và thúc đẩy quảng bá du lịch.
Ba là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Đào tạo và bồi dưỡng nhân sự có tay nghề cao, sử dụng ngoại ngữ tốt và thái độ phục vụ chuyên nghiệp là yếu tố quyết định đến chất lượng dịch vụ. Việc đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và giữ chân du khách trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt.
Bốn là tăng cường liên kết và hợp tác phát triển chuỗi giá trị du lịch. Doanh nghiệp cần phối hợp chặt chẽ trong chuỗi cung ứng dịch vụ du lịch, từ lữ hành, lưu trú đến ẩm thực và vận chuyển, để xây dựng sản phẩm du lịch trọn gói và có khả năng cạnh tranh cao. Tham gia vào các liên minh và hiệp hội du lịch sẽ mở rộng mạng lưới đối tác và tăng khả năng tiếp cận thị trường.
Năm là phát triển du lịch bền vững và có trách nhiệm: Doanh nghiệp cần chú trọng bảo vệ môi trường và bảo tồn giá trị văn hóa trong phát triển du lịch. Các mô hình du lịch bền vững như du lịch xanh, cộng đồng và nông nghiệp cần được áp dụng, ưu tiên sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường, giảm thiểu rác thải nhựa và hạn chế tác động tiêu cực đến cảnh quan tự nhiên.
Sáu là nâng cao năng lực quản trị và thích ứng linh hoạt với thị trường: Doanh nghiệp cần chủ động nâng cao năng lực quản trị chiến lược và xây dựng mô hình kinh doanh linh hoạt, có khả năng ứng phó hiệu quả với các tình huống khẩn cấp. Việc khai thác các thị trường quốc tế tiềm năng và đa dạng hóa nguồn khách là yếu tố quan trọng để giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống.
Với các giải pháp này, ngành du lịch Việt Nam sẽ tiếp tục phục hồi mạnh mẽ và phát triển bền vững, góp phần xây dựng hình ảnh đất nước thân thiện, mến khách và hội nhập quốc tế.
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Nguyễn Quốc Hiệp – Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam cho biết, năm 2025, chúng ta có nhiều điều đặc biệt, với hàng loạt các thay đổi. Riêng ngành xây dựng và bất động sản chiếm 8 – 9% GDP và nếu phát triển có thể đóng góp tích cực.

Ông Hiệp cho biết, năm nay được xem là năm cơ hội cho các doanh nghiệp xây dựng khi đầu tư công lớn nếu doanh nghiệp nội được chọn làm. Vướng mắc hiện nay của các nhà thầu liên quan chủ yếu đến Luật Đấu thầu, vì vậy, trong thời gian tới, quá trình sửa Luật Đấu thầu cần lắng nghe ý kiến của các nhà thầu để đảm bảo phù hợp thực tế.Bên cạnh đó, theo ông Hiệp, về mặt thể chế hiện nay vẫn chưa có sự rõ ràng, vì vậy, cần nâng cao chất lượng các văn bản pháp luật trong thời gian tới.
“Thực tế, bản thân doanh nghiệp của chúng tôi có một dự án liên danh để tham gia đấu thầu tại một tỉnh vùng núi, khi trúng thầu thì một trong 2 nhà thầu tham gia rút lui, dẫn tới địa phương không đồng ý… sau 8 tháng, dù đã thông tin để tìm hướng tháo gỡ đến các cơ quan liên quan, tuy nhiên, đến nay doanh nghiệp chưa được tháo gỡ” – ông Hiệp dẫn chứng.

Từ đó ông nhận định, nếu các văn bản chính sách có được sự minh bạch, rõ ràng thì doanh nghiệp sẽ không rơi vào tình trạng đã nêu. Do đó, ông đề xuất cần có các cơ quan rà soát chất lượng văn bản để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, cho môi trường kinh doanh.
Hiện nay các văn bản pháp luật đưa ra đều lấy ý kiến, tuy nhiên, việc tiếp thu vẫn tương đối hạn chế, cho nên, thời gian tới nếu muốn nâng cao chất lượng văn bản thì cần có sự giải trình rõ ràng về việc tiếp thu và không tiếp thu trong quá trình lấy ý kiến để đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng.
Thực tế, trong một số hoạt động liên quan đến các doanh nghiệp thực hiện các gói thầu bất động sản, một số thủ tục vẫn còn tương đối kéo dài, chưa được cắt giảm, một số thủ tục vẫn cần đến 5-6 con dấu. “Tôi cho rằng, thay vì để hiện trạng này kéo dài thì nên cắt giảm để các thủ tục chỉ cần một con dấu, khi đó thì hoạt động của doanh nghiệp, cũng như môi trường kinh doanh sẽ được tạo thuận lợi thực chất” – ông Hiệp nhấn mạnh.
Có mặt tại phiên thảo luận, ông Ngô Sỹ Hoài, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Viforest) cho biết, chính sách thuế của Chính quyền Hoa Kỳ là thách thức với các doanh nghiệp đặc biệt trong các ngành hàng xuất khẩu. Tính tự cường của các ngành hàng xuất khẩu nhiều như dệt may, da giày, gỗ, điện tử… còn yếu. Cơn địa chấn thuế của Chính quyền Donal Trump đã cho chúng ta thấy tăng trưởng theo bề rộng thiếu tính bền vững.

Theo ông Hoài, với ngành gỗ, chúng ta vẫn đang dựa vào lợi thế chi phí, thâm dụng lao động và nguồn nguyên liệu dồi dào giá rẻ để làm lợi thế trong cạnh tranh, phát triển. Do đó, khi có chính sách thuế của Hoa Kỳ các doanh nghiệp lung lay. “Các doanh nghiệp của chúng tôi hiện đang đàm phán với đối tác nước ngoài chia phần thuế 10%. Tuy nhiên các doanh nghiệp cho biết hiện lãi dưới 5% nên không thể chia sẻ mức thuế quan. Đây là thách thức thứ nhất với các doanh nghiệp” – ông nói.
Thách thức thứ hai là “bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Với ngành gỗ, tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ lên đến 56,4% năm 2024, chỉ cần vài cuộc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp theo Đạo luật của Hoa Kỳ là doanh nghiệp của chúng ta mất cân bằng.
Do đó, ông Hoài cho rằng, đến lúc phải nhìn lại chặng đường đã qua. Sắp tới chúng ta phải chấp nhận một kịch bản nhất định về thuế đối ứng. “Tôi cho rằng đã đến lúc phải hi sinh tăng trưởng số lượng mà nâng hơn về chất lượng. Với ngành gỗ có thể phải làm ít sản phẩm đi nhưng sản phẩm giá trị cao. Mặc dù số lượng doanh nghiệp làm được điều này chưa nhiều nhưng họ không bị lung lay nhiều khi có thuế đối ứng. Họ là những “chim đầu đàn” về phát triển bền vững” – ông Hoài nói.
Có thể nói, ngành gỗ đang trải qua thời kỳ rất khó khăn khi bị áp thuế đối ứng, tuy đang hoãn 90 ngày nhưng vẫn áp dụng mức 10% chung. Bên cạnh đó, khó khăn với doanh nghiệp ngành gỗ hiện còn là vấn đề hoàn thuế.
Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội cho biết, đối với những giải pháp và đòn bẩy mới, ông đề xuất các Bộ ngành chia thành 5 nhóm nhu cầu của các doanh nghiêp, bao gồm thị trường, tài chính, đầu tư, nhân lực và các thủ tục hành chính. Đồng thời, nên kết hợp chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh đó, về nguyên tắc định hướng chung, hiện nay theo ông Mạc Quốc Anh, đã có Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Doanh nghiệp… Do đó, các chương trình hỗ trợ cần chứng minh được việc tuân thủ thủ tục hành chính và các chi phí phải dưới 1% doanh thu của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Ông Mạc Quốc Anh lưu ý, nếu mức phí trên 1% rất khó để các doanh nghiệp phát triển.Bên cạnh đó, ông Mạc Quốc Anh cho rằng, cần có sự phối hợp đa ngành mang tính thống nhất và đồng bộ, để việc kết hợp giữa vốn nhà nước với vốn của doanh nghiệp tư nhân và các định chế tài chính của các tổ chức quốc tế phải có sự liên thông liên ngành nhằm đảm bảo tính hiệu quả; đồng thời cần có bộ đo lường các tác động theo vòng đời. Đưa bộ tiêu chí đánh giá về Chỉ số KPI về tài chính, việc làm, năng suất lao động, sản xuất xanh…. vào Nghị quyết 01 hàng năm. Điều này góp phần tăng tính hiệu quả của công tác sơ kết, tổng kết đánh giá.
Để doanh nghiệp nhỏ và vừa cất cánh, ông Mạc Quốc Anh đề xuất trong thời gian tới, cần rời vị trí là người cấp phát sang vai trò đồng kiến tạo, đồng đầu tư và chia sẻ rủi ro. Xem xét hợp nhất Luật Doanh nghiệp và Luật hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa được ra đời năm 2017 do có sự chồng chéo. Bên cạnh đó, đến năm 2027 ông Mạc Quốc Anh kiến nghị Bộ ngành, địa phương số hoá 100% thủ tục hành chính qua 1 cửa liên thông.
Để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, ông Mạc Quốc Anh đề xuất giảm 15% cho phần lợi nhuận tái đầu tư vào các thiết bị xanh, thiết bị số hoá cho các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực này. Cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê các chuyên gia trọn gói và Nhà nước hỗ trợ tài chính; Miễn phí 100% các phí về chữ kí số, hoá đơn điện tử.
Ông Mạc Quốc Anh mong muốn có sự điều chỉnh trong Luật Đấu thầu, giành tối thiểu 20% giá trị gói thầu của Chính phủ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đủ năng lực có thể tham gia vào dự án.
Ông Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho rằng, trước bất định của tình hình thế giới cùng tác động của thiên tai, biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng mở rộng sản xuất kinh doanh, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực, khẩn trương có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, trong đó, sử dụng nhiều giải pháp thông qua các tổ chức tín dụng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng của các doanh nghiệp còn khó khăn, theo ông Nguyễn Quốc Hùng, về phía doanh nghiệp do thiếu tài sản thế chấp, không đáp ứng minh bạch tài chính; khả năng cạnh tranh chưa cao, chưa nhiều doanh nghiệp tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong khi đó, thực hiện các giải pháp cơ cấu lại hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng đang đẩy mạnh áp dụng các chuẩn mực quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế, đòi hỏi ngày càng cao tính minh bạch. Việc xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ thông qua thủ tục tố tụng mất rất nhiều thời gian, chi phí, không có hiệu quả; một số chương trình tín dụng ưu đãi đặc thù (như gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho lĩnh vực bất động sản) còn khó khăn...

Để giúp doanh nghiệp vượt thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh, ông Nguyễn Quốc Hùng đề xuất, Chính phủ và các cơ quan chức năng đẩy mạnh cải cách thể chế, giảm chi phí thực thi của doanh nghiệp; có cơ chế chính sách đẩy mạnh tăng cường thị trường vốn, giảm áp lực vào nguồn vốn ngân hàng; xem xét để Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cho vay trực tiếp, tạo thêm kênh cung ứng vốn cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nhanh chóng nâng cấp Cổng thông tin quốc gia về hỗ trợ doanh nghiệp, tích hợp với Cổng thông tin doanh nghiệp nhỏ và vừa của ASEAN, các bộ, ngành tạo cơ sở hình thành kho dữ liệu về doanh nghiệp, giúp các tổ chức tín dụng giảm thời gian thu thập thông tin và thẩm định cho vay.
Đồng thời trợ giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực quản trị kinh doanh, xây dựng các dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn ngân hàng được thuận lợi.
Phó Chủ tịch điều hành Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tập trung vốn cho các lĩnh vực ưu tiên, các ngành nghề tiềm năng có tính lan tỏa cao, tạo động lực để phát triển kinh tế xã hội; tiếp tục triển khai các chương trình cho vay liên kết, chuỗi cung ứng…
Đối với các doanh nghiệp, ông Nguyễn Quốc Hùng cho rằng cần thực hiện quyết liệt tái cơ cấu cả về chiến lược, cơ cấu tổ chức, hoạt động, tài chính và quản trị doanh nghiệp; xây dựng phương án kinh doanh hiệu quả, tập trung vào những lĩnh vực khai thác được lợi thế so sánh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng trưởng về tài sản, minh bạch tài chính và thông tin hoạt động làm cơ sở để các tổ chức tín dụng thẩm định cho vay. Cùng với đó, chủ động tiếp cận thông tin về các gói tín dụng, quy định về vay vốn; tăng cường mở rộng hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Ông Nguyễn Duy Hưng, Chủ tịch Uỷ ban Đảm bảo hoạt động và Danh tiếng công ty Tân Hiệp Phát cho biết, để cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, chúng tôi muốn góp ý một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ từ doanh nghiệp, mà còn từ việc đầu tư vào đổi mới sáng tạo và áp dụng công nghệ. Mục tiêu của chúng ta là gắn với chuỗi lợi ích, chuỗi cung ứng của Việt Nam, gắn với tối ưu hóa lợi ích quốc gia.
Thứ hai là xây dựng niềm tin của thị trường. Lâu nay rất ít ý kiến bàn về vấn đề này, trong khi niềm tin thị trường rất quan trọng. Niềm tin này bao gồm niềm tin của doanh nghiệp đối với chính sách nhà nước, sự dễ đoán, minh bạch, công bằng và khả năng thực thi.
Đại diện Tân Hiệp Phát cho biết Nhà nước cũng cần có niềm tin với doanh nghiệp. Khi đó, thủ tục hành chính sẽ dễ dàng hơn, đơn giản hơn, không cần quá khắt khe, thanh tra kiểm tra nhiều, và Nhà nước sẵn sàng giao cho các doanh nghiệp tư nhân những dự án lớn.
Ngoài ra, niềm tin của các bên liên quan trong thị trường với nhau, như người lao động, người sử dụng lao động, đối tác cung cấp, người bán hàng với nhà phân phối và niềm tin của thị trường là rất quan trọng. Nếu nhìn vào bối cảnh 5 triệu hộ kinh doanh không chịu phát triển thành doanh nghiệp vì họ e ngại chi phí thủ tục và thiếu niềm tin, không muốn đầu tư mở rộng để tiếp tục phát triển, thì đây là yếu tố cực kỳ quan trọng.
Thứ ba, một vấn đề nữa mà rất ít người nói đến đó là về cơ sở hạ tầng chất lượng quốc gia, là hệ thống cơ chế pháp lý và kỹ thuật nhằm triển khai hoạt động tiêu chuẩn, đo lường, đánh giá sự phù hợp và công nhận chất lượng của từng quốc gia.
Hiện nay, dù có nhiều nỗ lực thay đổi, nhưng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam và thế giới còn khác nhau. Có nhiều tiêu chuẩn chất lượng được chấp nhận ở Việt Nam nhưng không đồng nghĩa với việc đạt tiêu chuẩn chất lượng ở nước ngoài.
.jpg)
Ngược lại, có nhiều tiêu chuẩn trên thế giới bắt buộc áp dụng, nhưng Việt Nam thì chưa.Khi chuẩn của Việt Nam khác với chuẩn thế giới, sẽ trở thành rào cản hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài.
Đồng thời, hạ tầng chất lượng quốc gia giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, mở rộng thị trường. Hạ tầng chất lượng quốc gia cũng đẩy mạnh sự thừa nhận của thị trường quốc tế với sản phẩm Việt Nam và giảm các rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế. Cơ sở hạ tầng này cũng bảo vệ người tiêu dùng, đưa ra chất lượng rất cao, gây áp lực cho nhà sản xuất phải làm ra sản phẩm chất lượng cao.
“Chúng ta không thể một mình một tiêu chuẩn mà cần phải hội nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh và vừa bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Chúng tôi lấy ví dụ chất lượng Tân Hiệp Phát hiện nay, ngoài đạt tiêu chuẩn chất lượng trong nước, còn đạt tiêu chuẩn chứng nhận của Cục Dược phẩm Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) và các nước Hồi giáo. Sản phẩm của Tân Hiệp Phát hiện nay được xuất đi 20 nước, trong đó có những thị trường rất khó tính như Nhật và Mỹ.
Thứ tư, là xây dựng chuỗi cung ứng giá trị. Khi chúng ta xâm nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng có một điều cần nhớ rằng, nếu khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu bao gồm cả Việt Nam về mặt địa lý, hiện nay có nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia sâu mà chủ yếu chỉ làm đầu ra trong nước, đầu vào cũng trong nước. Những doanh nghiệp như vậy có nguy cơ bị chuỗi giá trị toàn cầu thâm nhập và cạnh tranh, thậm chí bị thua trên sân nhà.
Vì vậy cần phải có những doanh nghiệp lớn dẫn dắt, xây dựng chuỗi giá trị đảm bảo sự tự cường, tự lập khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, để nếu có biến động, chúng ta vẫn có thể độc lập mà không phụ thuộc vào nước ngoài.
Thứ năm, về chỉ dẫn địa lý. Việt Nam có rất nhiều sản phẩm chỉ dẫn địa lý có chất lượng, hiện nay chúng ta đã bảo hộ trong nước được 141 sản phẩm có chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, nếu bảo hộ ở nước ngoài thì mới có 41 sản phẩm, như nước mắm Phú Quốc, nước mắm Phan Thiết... Đây là lợi thế của Việt Nam khi tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đảm bảo sự cạnh tranh vì lợi ích quốc gia.
Vì vậy, chúng ta cần phải có chính sách tăng cường tính bảo hộ chỉ dẫn địa lý cho các sản phẩm Việt Nam.
Thứ sáu, là chọn đối tác khi hội nhập. Chúng ta có cơ hội, nhưng cũng có rủi ro. Một trong những cơ hội khi hội nhập là có thể tiếp cận được tất cả những thành tựu tốt nhất trên thế giới. Kinh nghiệm của Tân Hiệp Phát cho thấy khi làm việc, chúng ta nên chọn các đối tác lớn, có uy tín, từ đó giúp tiết kiệm thời gian để đi tắt đón đầu và nâng cao năng lực cạnh tranh rất nhanh.
Cuối cùng, chúng ta phải sẵn sàng thay đổi. Sự biến động của thị trường đem lại nhiều rủi ro, chiến tranh – mâu thuẫn thương mại giữa các nước sẽ dẫn đến sự thay đổi về giá thành sản phẩm, rào cản thương mại, sự dịch chuyển về đầu tư, lao động. Quá trình thay đổi không hề dễ dàng, có thể gây thiệt hại cho từng thành viên của thị trường. Không có cách khác, cần sẵn sàng thay đổi, sẵn sàng chấp nhận cắt lỗ để dịch chuyển. Tối thiểu hóa thiệt hại khi có biến động, rủi ro cũng là tăng lợi nhuận.
Ths Lương Văn Thường – Cục Khởi nghiệp và Doanh nghiệp công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, trước giai đoạn COVID-19 thì thị trường đầu tư mạo hiểm là 1-2 tỷ đô, tuy nhiên, hiện nay chỉ có một vài trăm triệu đô, so với các nước trên thế giới thì con số đầu tư mạo hiểm rất nhỏ bé.Với các Start-up thì họ rất cần nguồn vốn. Họ có sẵn phương án kinh doanh và sản phẩm, vì vậy, trong Dự thảo Luật Khoa học công nghệ (sửa đổi) thời gian tới, chúng tôi cũng đưa câu chuyện về nguồn vốn vào trong các quy định, đặc biệt là các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Theo đó, chúng ta cần thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm của quốc gia và quỹ đầu tư mạo hiểm của địa phương, 2 quỹ này chúng tôi kỳ vọng sẽ sử dụng ngân sách nhà nước, kết hợp với nguồn vốn từ các tập đoàn và khu vực tư nhân, có thể tạo ra một quỹ đầu tư quốc gia đủ lớn để kích thích vốn mồi và thu hút được nguồn lực tư nhân đầu tư vào khởi nghiệp.
“Chúng tôi khuyến khích các cơ chế thu hút theo phương thức hợp tác công – tư nhằm tạo nguồn vốn lớn hơn để đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp về công nghệ. Chúng tôi đã đưa những vấn đề này vào trong Dự thảo Luật Khoa học công nghệ (sửa đổi)” – ông nói.
Ths Lương Văn Thường cũng cho rằng, đầu tư mạo hiểm nên có rủi ro, cho nên phải thoát khỏi tư duy bảo toàn vốn trong quản lý sử dụng đầu tư cho các doanh nghiệp khởi nghiệp để có thể tận dụng nguồn lực từ ngân sách cho các chương trình khởi nghiệp.
Cuối cùng, cần tận dụng các nguồn lực từ các doanh nghiệp và các start-up thành công có những cơ chế ưu đãi trong việc đầu tư vào các chương trình khởi nghiệp như miễn thuế, hoàn vốn… để có thể khuyến khích vốn vào quỹ đầu tư mạo hiểm của tư nhân ngày càng lớn hơn để hỗ trợ cho hoạt động khởi nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của hoạt động này.
Bà Trương Thị Chí Bình - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (Vasi) cho biết, chính sách cho phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ đã đầy đủ nhưng thực hiện còn kém. Visa có khoảng 500 doanh nghiệp tự tin là những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Với giá trị 3 tỷ USD, bà Bình cho biết, các doanh nghiệp đang xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp các sản phẩm Việt ra toàn cầu.
"Khi câu chuyện thuế đối ứng, ngành chúng tôi đánh giá sẽ không bị ảnh hưởng lớn và cơ hội là sự chuyển dịch của dòng đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam" - Bà Chí Bình nói.

Đề xuất kiến nghị tại Diễn đàn, bà Bình cho biết: Chúng tôi cần Chính phủ hỗ trợ về thị trường. Chúng tôi đề xuất cần chọn lọc các dự án FDI khi vào Việt Nam. Làm sao tạo ra các công ty đầu chuỗi là doanh nghiệp Việt.
Chúng ta đã có những doanh nghiệp điển hình như Vinfast, Thaco khi họ đứng đầu chuỗi để đưa thương hiệu Việt ra toàn cầu.
"Chúng tôi cho rằng cần chính sách khuyến khích phát triển lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Bởi để “bàn tay” thị trường thì doanh nghiệp sẽ không chọn phát triển kinh doanh ở lĩnh vực chế biến chế tạo. Để thu hút điều này cần có chương trình startup tập trung vào các kỹ sư lành nghề. Chúng ta cần số lượng doanh nghiệp tăng lên và năng lực của các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ". - Bà Chí Bình nói.
Ông Andrew Yeh - Giám đốc điều hành Công ty Slasify cho biết, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và lĩnh vực công nghệ đang bùng nổ của Việt Nam đã tạo tiền đề cho các doanh nghiệp trong nước vươn ra quốc tế đầy tham vọng.

Nhiều công ty Việt Nam, từ các startup công nghệ năng động đến những doanh nghiệp sản xuất và bán lẻ đang hướng tầm nhìn đến các thị trường quốc tế. Tuy nhiên, mở rộng toàn cầu mang đến những thách thức, đặc biệt trong việc quản trị nguồn nhân lực (HR) toàn cầu, bao gồm tuyển dụng nhân sự chất lượng cao, khác biệt văn hóa và yêu cầu tuân thủ, đồng thời phải kiểm soát chi phí và duy trì sự linh hoạt…
“Khi các doanh nghiệp càng tham gia vào nhiều quốc gia khác nhau, những vấn đề này sẽ càng nhân lên và phức tạp hơn”- ông Andrew Yeh nói.
Có thể thấy, đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy doanh nghiệp đẩy nhanh hơn quá trình chuyển đổi số. Bên cạnh đó, việc chuyển đổi số trong ngành quản trị nhân sự cũng đang diễn ra ngày càng nhanh. Bằng cách hiện đại hóa quản lý nhân sự thông qua công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam có thể vận hành bộ máy nhân sự ở nước ngoài hiệu quả hơn và giảm thiểu rủi ro ở nước sở tại.
Tại Diễn đàn, ông Yeh cũng đã giới thiệu đến các doanh nghiệp có thể nghiên cứu giải pháp EOR, một xu hướng mới trong quản trị nhân sự.
Phát biểu tổng kết Diễn đàn Doanh nghiệp 2025: Trợ lực cho doanh nghiệp vượt qua thách thức, nâng cao năng lực cạnh tranh, ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch VCCI thông tin, diễn đàn đã nhận được nhiều ý kiến trao đổi cởi mở, trách nhiệm và sôi nổi của các đại biểu đến từ cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý đến các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp. Các ý kiến rất phong phú, đề cập đến nhiều vấn đề thuộc những lĩnh vực, ngành nghề khác nhau của nền kinh tế.

Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng mong muốn tiếp tục nhận được các đề xuất, kiến nghị của các hiệp hội, doanh nghiệp, nhất là các điểm nghẽn phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp và các cơ quan của VCCI sẽ tiếp nhận các ý kiến, kiến nghị, đề xuất tại diễn đàn, tiếp tục tổng hợp, báo cáo các cơ quan Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển.
.