Tâm điểm

Chiến lược năng lượng mặt trời của Việt Nam giữa căng thẳng thương mại

Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Khương, giảng viên Khoa Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam 12/05/2025 09:42

Quyết định 768/QĐ-TTg về Quy hoạch điện VIII khẳng định cam kết của Việt Nam với năng lượng tái tạo trong quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu.

Việt Nam sở hữu nguồn năng lượng mặt trời đầy tiềm năng, ước tính đạt 963.000 MW – con số đáng kinh ngạc so với công suất hiện tại là 16.600 MW. Với 72 GW của các dự án điện gió ngoài khơi dọc bờ biển dài 3.260 km, tương lai ngành năng lượng tái tạo của Việt Nam là vô cùng rạng rỡ.

Từ tham vọng đến hiện thực

Quyết định 768 thiết lập nên một lộ trình đầy tham vọng: năng lượng tái tạo sẽ chiếm 28-36% cơ cấu năng lượng Việt Nam đến năm 2030, tăng đáng kể lên 74-75% vào năm 2050. Quá trình chuyển đổi này không đơn thuần là khát vọng mà được hỗ trợ bởi 15,5 tỉ đô la Mỹ có được từ Quan hệ đối tác Chuyển đổi năng lượng công bằng với EU và Vương quốc Anh vào cuối năm 2022.

Từng trang của câu chuyện năng lượng tái tạo thành công Việt Nam vẫn đang mở ra. Theo báo cáo của Global Energy Monitor, công suất năng lượng mặt trời và gió quy mô tiện ích của cả nước hiện tại là 19,5 GW, cao hơn gấp đôi tổng công suất của các quốc gia ASEAN khác. Năng lượng tái tạo hiện chiếm 25% cơ cấu năng lượng của Việt Nam, vượt xa mức trung bình của khu vực là 9%.

Hình 1 nguồn RMIT
Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Khương, giảng viên Khoa Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam

Tình thế tiến thoái lưỡng nan do phụ thuộc vào Trung Quốc

Dẫu có những bước tiến đáng kể như trên, Việt Nam đang phải đối mặt với một điểm yếu nghiêm trọng. Khoảng 90% thiết bị cho các dự án năng lượng tái tạo được nhập khẩu, phụ thuộc vào các nhà sản xuất Trung Quốc. Điều này khiến Việt Nam phải đối mặt với rủi ro địa chính trị và chuỗi cung ứng khi căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng.

Và các rủi ro này đang thực sự diễn ra. Các doanh nghiệp Trung Quốc ở Việt Nam, chẳng hạn như Jinko Solar và Trina Solar, phải đối mặt với mức thuế của Mỹ lần lượt lên tới gần 245% và 202% sau quyết định của Mỹ từ tháng 4/2025. Một số doanh nghiệp năng lượng mặt trời Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ hiện đối mặt với mức thuế cao lên tới 813,92%, khiến chi phí dự án tăng phi mã và có khả năng làm cho đà tăng trưởng của ngành chậm lại.

Thách thức về cơ sở hạ tầng: nút thắt ở mạng lưới điện

Tham vọng năng lượng tái tạo của Việt Nam còn đối mặt với một trở ngại cực lớn khác – hạ tầng lưới điện không thể theo kịp công suất sản xuất. Trong khi một dự án năng lượng mặt trời 50-100 MW có thể được phát triển trong sáu tháng, cơ sở hạ tầng truyền tải điện cần tới 2-3 năm để hình thành.

Sự lệch pha này tạo ra nút thắt khiến niềm tin của nhà đầu tư giảm sút. Trong số 86 GW năng lực điện mặt trời và gió quy mô tiện ích tiềm năng được xác định tại Việt Nam, chỉ có 2% hiện đang trong quá trình xây dựng – một chỉ số chỉ rõ những thách thức trước mắt.

Biến căng thẳng thương mại thành lợi thế chiến lược

Nghịch lý thay, tranh chấp thương mại có thể mang lại cho Việt Nam cơ hội độc nhất để củng cố lĩnh vực năng lượng tái tạo của đất nước. Khi các công ty trên toàn thế giới tìm kiếm những giải pháp thay thế cho hàng sản xuất từ Trung Quốc, Việt Nam có thể định vị mình như một trung tâm chiến lược về sản xuất năng lượng tái tạo.

Bằng cách phát triển năng lực sản xuất các tấm năng lượng mặt trời, ắc quy trữ năng và những công nghệ liên quan ngay trong nước, Việt Nam có thể giảm phụ thuộc vào xuất khẩu, đồng thời tạo ra việc làm mang lại giá trị cao và thúc đẩy đổi mới công nghệ. Các hiệp định thương mại hiện có, bao gồm Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, cho Việt Nam khả năng tiếp cập đầy cạnh tranh vào các thị trường đa dạng, thu hút đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ.

Hình 2 nguồn Unsplash
Các dự án năng lượng tái tạo đầy tham vọng được thiết lập để thay đổi bối cảnh năng lượng quốc gia và định vị Việt Nam với vai trò lãnh đạo phát triển bền vững của khu vực. (Ảnh: Unsplash)

Định hướng tương lai: xây dựng khả năng phục hồi

Để duy trì vị thế dẫn đầu trong năng lượng tái tạo, có một số ưu tiên mà Việt Nam cần thực hiện. Thúc đẩy sản xuất trong nước thông qua hỗ trợ tài chính, giảm thuế và các quy trình quản lý liền mạch. Tăng cường quan hệ đối tác quốc tế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn lực và liên doanh, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.

Một trọng tâm quan trọng khác là thúc đẩy đầu tư vào nghiên cứu, đổi mới và các giải pháp kỹ thuật. Việc ưu tiên nghiên cứu và phát triển các công nghệ tái tạo và hệ thống lưu trữ năng lượng có thể định vị Việt Nam là quốc gia dẫn đầu về công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và phục hồi. Các trường đại học, tổ chức nghiên cứu và khu vực tư nhân nên hợp tác để phát triển những giải pháp cấp tiến phù hợp với điều kiện trong nước.

Đầu tư vào hiện đại hóa lưới điện và các giải pháp lưu trữ năng lượng tiên tiến cũng là một điểm quan trọng. Nâng cấp cơ sở hạ tầng sẽ giúp tích hợp và ổn định các nguồn năng lượng tái tạo không liên tục một cách hiệu quả hơn, giảm thiểu các vấn đề gián đoạn và nâng cao độ tin cậy. Đẩy mạnh quan hệ đối tác công-tư có thể huy động thêm nguồn lực và chuyên môn kỹ thuật, đẩy nhanh việc cải thiện cơ sở hạ tầng.

Thiết lập các chính sách năng lượng tái tạo ổn định, minh bạch và dài hạn là một ưu tiên khác cần chú ý. Các khung pháp lý có thể dự đoán, được sự hỗ trợ bởi những ưu đãi rõ ràng và nhất quán, sẽ thu hút nguồn tài trợ quốc tế bền vững và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Truyền thông về chính sách rõ ràng sẽ định vị Việt Nam là điểm đến đầu tư năng lượng tái tạo toàn cầu đáng tin cậy và hấp dẫn.

Mặc dù căng thẳng thương mại và thuế đối ứng tiềm ẩn rủi ro, song chính điều này cũng mang đến cho Việt Nam cơ hội độc đáo để xây dựng ngành năng lượng tái tạo tiên tiến và có khả năng phục hồi. Bằng cách tận dụng các nguồn lực hiện có, giải quyết những lỗ hổng thông qua nghiên cứu và giải pháp kỹ thuật, cũng như áp dụng các chính sách toàn diện, Việt Nam có thể biến những thách thức này thành quỹ đạo tăng trưởng bền vững.

Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh Khương, giảng viên Khoa Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ, Đại học RMIT Việt Nam