Cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, ngành hàng và kích cầu đầu tư, tiêu dùng
Tác động của chính sách thuế quan yêu cầu doanh nghiệp cần chủ động triển khai một loạt giải pháp chiến lược, cùng với đó, cơ quan chức năng cần có chính sách hỗ trợ.
TS. Cấn Văn Lực - Kinh tế gia trưởng Ngân hàng BIDV, thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách của Chính phủ cho biết, theo dự báo của các tổ chức quốc tế, tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ chậm lại, từ mức 3,3% của năm 2024 xuống còn 2,8% trong giai đoạn 2025 - 2026. Lạm phát toàn cầu có xu hướng giảm nhẹ, tuy nhiên, các rủi ro địa chính trị, chiến tranh thương mại và công nghệ, cùng với xu hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng, tạo ra một bức tranh kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn.

Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn được các tổ chức kỳ vọng đạt mức tăng trưởng tích cực nhờ các điểm sáng nổi bật.
Tại Chương trình Cà phê doanh nhân HUBA với chủ đề "Kinh tế thế giới và Việt Nam 2025 - 2026 trong bối cảnh thuế quan mới của Mỹ: Tác động và giải pháp đối với doanh nghiệp Việt", do Hiệp hội Doanh nghiệp TP HCM (HUBA) vừa tổ chức, theo ông Lực, các động lực tăng trưởng của Việt Nam như tiêu dùng, xuất khẩu, đầu tư tư nhân, FDI đều có sự phục hồi khá đồng đều; nền tảng vĩ mô và quản trị rủi ro được tích luỹ tốt lên. Đồng thời, sự gia tăng đầu tư toàn cầu vào cơ sở hạ tầng, chuyển đổi xanh và công nghệ số, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh,… mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp Việt Nam năng động và biết nắm bắt thời cơ.
Song chính sách thuế quan mới của Mỹ có thể tạo ra những tác động đa chiều và phức tạp đến nền kinh tế Việt Nam. Tác động này khiến tăng trưởng kinh tế có thể chia thành 3 kịch bản dự báo, tùy theo mức độ ảnh hưởng:
Thứ nhất, ở kịch bản cơ sở (60% xác suất xảy ra), Việt Nam thành công trong đàm phán để giảm thuế đối ứng xuống 20 - 25%, dẫn đến kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ giảm khoảng 6 - 7,5 tỷ USD so với năm 2024.
Thứ hai, ở kịch bản tiêu cực hơn (20% xác suất) với mức thuế 46% có thể khiến xuất khẩu giảm tới 22 - 24 tỷ USD.
Thứ ba, trong kịch bản tích cực nhất (20% xác suất), Việt Nam chỉ bị áp thuế 10% thì xuất khẩu sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể.
Đối với kịch bản cơ sở, tác động đối với các ngành xuất khẩu chủ lực như điện tử, dệt may, gỗ và giày dép… là nặng nề. Ví dụ, sản phẩm điện tử có thể giảm 1,4 tỷ USD so với năm 2024, ngành dệt may có thể mất khoảng 0,9 tỷ USD kim ngạch nếu thuế đối ứng ở mức 20 - 25%. Chiều ngược lại, chi phí nhập khẩu nguyên liệu, máy móc từ Mỹ cũng tăng lên, đẩy giá thành sản xuất trong nước lên cao, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên cả thị trường quốc tế và nội địa.
Tác động cũng xảy ra với vốn FDI, khi dòng vốn vào Việt Nam được dự báo sẽ suy giảm từ 3 - 8% tùy theo kịch bản, đặc biệt là từ các nhà đầu tư Mỹ và châu Á do tâm lý e ngại rủi ro chính sách. Các ngành hỗ trợ như logistics và bất động sản khu công nghiệp cũng chịu ảnh hưởng gián tiếp khi hoạt động xuất nhập khẩu chậm lại.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, trên tín hiệu đàm phán thuế quan chung của toàn cầu và diễn tiến đàm phán song phương Việt - Mỹ, các chuyên gia kỳ vọng kịch bản đàm phán mức thuế sẽ về dưới 20%.

Chia sẻ tại một hội thảo trước đó do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tổ chức, TS Nguyễn Xuân Thành - Trường chính sách công và quản lý Fulbright, Đại học Fulbright Việt Nam, nêu quan điểm: Theo ông, kịch bản đàm phán tốt nhất là mức thuế 10-15%, khi đó hàng Việt Nam vẫn có tính cạnh tranh, dòng vốn FDI vẫn tốt. Còn trong kịch bản đàm phán xấu nhất là mức thuế 30-35%, khi đó không còn khái niệm “Trung Quốc +1” cho Việt Nam.
“Kịch bản mục tiêu đặt ra với đàm phán mức thuế 18-22%, khi đó chỉ mất một phần tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, nhưng dòng vốn FDI chậm lại chứ không có sự tháo chạy”, ông Thành nói.
Đồng thời chuyên gia cũng cho rằng dù mức thuế 20% là “trong tầm tay”, nhưng ngay cả trong kịch bản như thế thì con số đó vẫn là cao, ảnh hưởng tiêu cực đến dài hạn, các nhà đầu tư trong nước ngoài sẽ phải tính toán lại. Vì mức thuế đối ứng là cộng thêm, ví dụ mặt hàng dệt may thuế 15% thì phải cộng thêm 20%.
Như vậy chính sách thuế quan dù ở mức kịch bản cơ sở với xác suất cao có thể xảy ra, thì việc đánh giá đầy đủ các tác động, ảnh hưởng để có giải pháp ứng phó vẫn là hết sức cần thiết.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động triển khai một loạt giải pháp chiến lược để giảm thiểu những tác động tiêu cực và tận dụng tối đa các cơ hội trong tình hình mới, Quan trọng nhất là đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, giảm sự phụ thuộc vào một thị trường duy nhất. Tích cực mở rộng sang các thị trường tiềm năng khác, đồng thời khai thác hiệu quả các ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết như Nhật Bản, Úc, Singapore,… ngoài thị trường Mỹ cũng là giải pháp được khuyến nghị.
Song song đó, nâng cao năng lực cạnh tranh, mạnh dạn đầu tư vào công nghệ và đổi mới sáng tạo, áp dụng các quy trình sản xuất tiên tiến để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí. Doanh nghiệp cũng phải xây dựng thương hiệu uy tín, tạo dựng niềm tin với khách hàng thông qua chất lượng, dịch vụ và trách nhiệm xã hội để tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm.
"Tối ưu hóa chuỗi cung ứng, tìm kiếm các nguồn cung ứng thay thế và giảm sự phụ thuộc vào một nhà cung cấp duy nhất sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao tính linh hoạt và khả năng chống chịu trước các biến động bên ngoài", chuyên gia nhấn mạnh.
Các chuyên gia đều khuyến nghị về giải pháp tối ưu hóa chuỗi cung ứng và chủ động về nguồn cung cấp, tránh lệ thuộc 1 thị trường, đặc biệt minh bạch nguồn gốc, xuất xứ... Điều này đòi hỏi sự đồng bộ tái cơ cấu của nền kinh tế, nâng cao nhận thức, ý thức và khả năng phòng vệ thương mại từ phía doanh nghiệp và các Hiệp hội, ngành hàng.
TS Cấn Văn Lực cho rằng, bên cạnh nỗ lực của doanh nghiệp, vai trò của Chính phủ, cơ quan quản lý là vô cùng quan trọng trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Chính phủ cần tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác cùng có lợi với Mỹ; tăng cường đối thoại, đàm phán qua các kênh. Đặc biệt là sớm triển khai các giải pháp cụ thể nhằm cân bằng thương mại hơn với Mỹ như: tăng nhập khẩu từ Mỹ, tiếp tục giảm thuế đối ứng đối với hàng nhập khẩu từ Mỹ.
Đối với doanh nghiệp trong nước, cơ quan nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, ngành hàng bị ảnh hưởng tiêu cực từ chính sách thuế quan mới của Mỹ; kích cầu đầu tư – tiêu dùng trong nước; giữ mặt trận xuất khẩu. Cùng với đó, cần cơ cấu lại nền kinh tế, tăng cường nội lực, tính tự chủ, tự lực và tự cường. Đồng thời, tập trung vào cả các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng...) và các động lực tăng trưởng mới, ông Lực nhấn mạnh.
Còn theo TS Nguyễn Xuân Thành, các cơ hội tăng trưởng của nền kinh tế của nền kinh tế phụ thuộc vào phản ứng chính sách, đặc biệt là việc điều phối giữa tiền tệ - tài khóa. Chuyên gia cho rằng nếu mức thuế về 10% (mức kỳ vọng cao của nhiều doanh nghiệp), thì áp lực đối với kích cầu sẽ thấp hơn.