Nghiên cứu - Trao đổi

Hoàn thiện hệ thống pháp lý về xuất xứ hàng hóa

Yến Nhung 27/05/2025 04:00

Nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý về xuất xứ hàng hóa, nhiều ý kiến góp ý được đưa ra về những bất cập trong quy trình cấp chứng nhận xuất xứ và quy định ghi nhãn sản phẩm.

Theo đó, Nghị định số 31/2018/NĐ-CP (Nghị định 31) được Chính phủ ban hành ngày 8/3/2018 đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng trong việc quản lý xuất xứ hàng hóa, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng ưu đãi từ các FTA. Tuy nhiên, sau 7 năm thực hiện, với sự gia nhập của Việt Nam vào các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA và hàng loạt cam kết phức tạp về xuất xứ, Nghị định 31 bộc lộ nhiều hạn chế và khó đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Mỗi hiệp định có quy định xuất xứ khác nhau, đòi hỏi hệ thống pháp lý phải minh bạch, linh hoạt và phù hợp hơn.

xk-thuy-san-1.jpg
Nghị định 31 đã bộc lộ nhiều hạn chế và khó đáp ứng được yêu cầu thực tiễn - Ảnh: ITN

Trong bối cảnh tình hình thương mại quốc tế diễn biến phức tạp, nhanh, khó lường, cạnh tranh chiến lược ngày càng mạnh mẽ, nhạy cảm, đặc biệt khi Hoa Kỳ áp dụng chính sách thuế quan đối ứng đối với nhiều nước trên thế giới bao gồm cả Việt Nam. Căng thẳng thương mại leo thang dẫn đến các hành vi gian lận thương mại, trong đó gian lận xuất xứ hàng hóa có xu hướng ngày càng gia tăng và phức tạp nhằm tránh các biện pháp trừng phạt mà các nước sẽ áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy, việc xây dựng nghị định thay thế Nghị định 31 là cần thiết, cấp bách phù hợp với tình hình mới.

Theo ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, việc xây dựng nghị định thay thế Nghị định 31 nhằm hướng tới một hệ thống pháp lý đầy đủ, minh bạch hơn, phù hợp với Luật Thương mại, Luật Quản lý ngoại thương và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Đồng thời, tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp xuất khẩu, song song với việc kiểm soát hiệu quả các hành vi gian lận thông qua cơ chế phòng ngừa và xử lý nghiêm.

Bên cạnh đó, Nghị định mới cũng sẽ cập nhật những nội dung mới, làm cơ sở triển khai cho giai đoạn các năm tới, tạo cơ sở để doanh nghiệp, cơ quan quản lý xác định xuất xứ Việt Nam của hàng hóa xuất nhập khẩu... qua đó tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để áp dụng ưu đãi thuế quan theo đúng quy định tại các FTA. Nghị định cũng hướng tới tăng cường công tác phòng chống gian lận xuất xứ, hạn chế tình trạng giả mạo xuất xứ; bảo vệ uy tín, thương hiệu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Mặc dù đánh giá cao nỗ lực xây dựng khung pháp lý đồng bộ, nhiều doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng vẫn bày tỏ lo ngại về một số quy định có nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu. Đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), bà Trần Hoàng Yến, Phó trưởng Văn phòng đại diện cho biết, Dự thảo Nghị định mới không công nhận các công đoạn chế biến đơn giản như phối trộn, phơi sấy, bảo quản, lưu kho sản phẩm không được coi là hoạt động chế biến để xem xét cấp Chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O). Quy định này gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp thủy sản, vốn phụ thuộc nhiều vào những công đoạn này.

Bên cạnh đó, VASEP cũng phản ánh thực trạng nhiều sản phẩm không được phép ghi nhãn là “sản phẩm sản xuất tại Việt Nam” do chưa đủ điều kiện xác định xuất xứ. Thay vào đó, doanh nghiệp chỉ được phép ghi là “đóng chai tại Việt Nam” hoặc “phối trộn tại Việt Nam”. Điều này gây lúng túng trong giao dịch với đối tác.

Ngoài ra, bà Yến cho rằng, quy định hạn chế ghi nhãn xuất xứ đối với sản phẩm đánh bắt từ tàu cá thuê nước ngoài nhưng treo cờ Việt Nam là chưa phù hợp với thực tiễn. Bởi lẽ, để đảm bảo chất lượng bảo quản, sơ chế tại chỗ và đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, ngư dân Việt Nam buộc phải thuê tàu nước ngoài để đánh bắt trong vùng biển Việt Nam. Nếu các sản phẩm này không được công nhận xuất xứ Việt Nam, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn lớn trong xuất khẩu trong bối cảnh sản phẩm và thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt như hiện nay

2275253_300849cb1d32991da95ef9656c51a076.jpg
Đại diện Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cũng nêu rõ bất cập trong quy định cấp C/O hiện nay - Ảnh: ITN

Tương tự, đại diện Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam cũng nêu rõ bất cập trong quy định cấp C/O hiện nay. Theo đó, gỗ rừng trồng do doanh nghiệp tự đầu tư sản xuất theo quy định tại Thông tư 26 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường (quy định về quản lý, truy xuất nguồn gốc lâm sản) không phải xin xác nhận vào bản kê lâm sản từ chính quyền địa phương cấp xã hay cơ quan kiểm lâm. Tuy nhiên, trên hồ sơ xin cấp C/O của Bộ Công Thương lại yêu cầu doanh nghiệp cung cấp bản kê lâm sản có xác nhận của chính quyền địa phương cấp xã và cơ quan kiểm lâm.

Bên cạnh đó, Hiệp hội còn cảnh báo về thực trạng doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam để gia công, lắp ráp gỗ đơn giản nhằm lẩn tránh mức thuế cao từ Hoa Kỳ. Dự thảo Nghị định hiện quy định sản phẩm gỗ xuất khẩu nếu chỉ trải qua công đoạn lắp ráp đơn giản thì không đủ điều kiện xin cấp C/O. Tuy nhiên, trên thực tế, việc phân định thế nào là “lắp ráp đơn giản” còn rất mơ hồ, tiềm ẩn rủi ro bị cáo buộc gian lận nếu không được hướng dẫn chi tiết. Do đó, kiến nghị ban soạn thảo cần bổ sung phụ lục liệt kê cụ thể những công đoạn được coi là lắp ráp cơ bản, nhất là với các mặt hàng có nguy cơ bị điều tra xuất xứ, để minh bạch hóa quá trình đánh giá và tránh tranh cãi không cần thiết.

Yến Nhung