Tâm điểm

Cải cách tài chính cho hộ kinh doanh cá thể

TS Nguyễn Hoàng Hiệp, Chủ tịch HĐKH Viện Nghiên cứu Tin học và Kinh tế Ứng dụng 05/06/2025 02:08

Trong nền kinh tế Việt Nam, hộ kinh doanh cá thể không phải là lực lượng kinh tế mới, nhưng lại là một cấu phần có tính truyền thống, linh hoạt và gắn bó mật thiết với đời sống xã hội.

khacg-hang.jpg
Việc tiếp cận vốn vay ngân hàng của các hộ kinh doanh cá thể vẫn còn khó khăn.

Tuy nhiên, mô hình này đứng trước nhiều thách thức, đặc biệt là trong tiếp cận tài chính và vốn. Do đó, cải cách chính sách tài chính đối với hộ kinh doanh cá thể trở thành một yêu cầu cấp thiết để nâng cấp khu vực này trong xu hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân theo Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Lực lượng còn yếu thế

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến cuối năm 2023, cả nước có khoảng 5,2 triệu hộ kinh doanh cá thể, đóng góp hơn 30% GDP, tạo việc làm cho khoảng 8– 9 triệu lao động. Tuy nhiên, phần lớn các hộ này không có đăng ký kinh doanh, không có tài sản bảo đảm, không có sổ sách kế toán, và gần như bị loại ra khỏi hệ thống tài chính chính thức.

Chỉ một tỷ lệ nhỏ hộ kinh doanh được tiếp cận tín dụng ngân hàng, chủ yếu nhờ tài sản thế chấp là đất đai hoặc nhà ở. Phần lớn phải vay từ nguồn phi chính thức, với lãi suất cao và nhiều rủi ro. Trong bối cảnh cạnh tranh với các chuỗi bán lẻ hiện đại và thương mại điện tử, các hộ cá thể bị “lép vế”.

Nghị quyết 68-NQ/TW yêu cầu rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về kinh doanh cá thể; tạo mọi điều kiện về tổ chức quản trị và chế độ tài chính, kế toán để khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp. Đẩy mạnh số hoá, minh bạch hoá, đơn giản hoá, dễ tuân thủ, dễ thực hiện đối với chế độ kế toán, thuế, bảo hiểm... để khuyến khích chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp; xoá bỏ thuế khoán đối với hộ kinh doanh. Tuy nhiên, để triển khai thành công, cần một chương trình cải cách đồng bộ và thực tế hơn.

Những cải cách tài chính cần thiết

Bên cạnh những rào cản tiếp cận tài chính, việc thực thi một số giải pháp cải cách, nếu không đi cùng việc mở rộng các chính sách hỗ trợ tiếp cận tín dụng, tài chính và hỗ trợ nâng cấp công nghệ số, kết hợp để triển khai các mô hình kinh doanh truyền thống và hiện đại, khiến các hộ kinh doanh gặp khó khăn, có nguy cơ rời thị trường.

Do đó, cụ thể hóa các giải pháp tài chính vi mô, cần đi cùng với kế hoạch mở rộng quy mô các tổ chức tài chính vi mô (ví dụ như CEP) hoặc hợp tác với ngân hàng chính sách để cung cấp các khoản vay nhỏ (5–50 triệu đồng) không cần thế chấp cho hộ kinh doanh, với lãi suất ưu đãi. Việc này nên gắn với hệ thống đánh giá tín nhiệm hộ kinh doanh dựa trên lịch sử giao dịch điện tử, hóa đơn bán hàng hoặc sử dụng ví điện tử.

Hiện đã có một số ngân hàng có các gói vay cho tiểu thương kinh doanh với lãi suất thấp hay một số ngân hàng có “combo” ưu đãi hỗ trợ lãi suất các hộ kinh doanh chuyển lên doanh nghiệp, song giải ngân cần thực chất, cơ quan quản lý tiền tệ cần giám sát và có báo cáo Chính phủ định kỳ cũng như cần nghiên cứu gói hỗ trợ tái cấp vốn cho ngân hàng hỗ trợ giải ngân chuyển đổi doanh nghiệp.

Tại Nghị quyết 138/NQ-CP, Chính phủ đề ra các yêu cầu cụ thể về chính sách bảo lãnh tín dụng của Nhà nước, tái bảo lãnh để thực hiện theo chủ trương Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Chúng ta biết rằng Việt Nam hiện có quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhưng chưa hiệu quả. Do đó, bên cạnh việc cần thiết lập Quỹ bảo lãnh tín dụng dành riêng cho hộ kinh doanh cá thể, trong đó Nhà nước bảo lãnh từ 50–70% khoản vay tại các ngân hàng thương mại, cần nghiên cứu nguồn vốn, cơ chế cho quỹ này. Bởi khu vực hộ kinh doanh cá thể hoặc doanh nghiệp siêu nhỏ, đều có đặc thù ít hoặc không có tài sản đảm bảo.

Việc xóa bỏ thuế khoán cần được nghiên cứu theo hướng kết hợp sử dụng hoá đơn VAT trực tiếp. Với năng lực của các hộ kinh doanh cá thể, tiểu thương, kinh doanh gia đình… rất cần nghiên cứu để hỗ trợ xây dựng và sử dụng hệ thống kế toán phù hợp. Đây là cơ sở để các hộ đăng ký kinh doanh khai báo thu nhập minh bạch. Những ai kinh doanh minh bạch cần được ưu đãi thuế hoặc miễn phí xử lý hồ sơ tín dụng lần đầu. Điều này vừa tạo động lực chuyển sang khu vực chính thức, vừa xây dựng văn hóa tài chính văn minh hơn.

Các hộ có hoạt động tài chính minh bạch nên được tích điểm tín nhiệm để hưởng các chính sách như bảo hiểm y tế tự nguyện, hỗ trợ học phí, thuê mặt bằng công cộng ưu đãi... Gắn kết giữa tài chính – an sinh là cách để thúc đẩy sự tuân thủ chính sách từ cơ sở.

Cuối cùng, việc triển khai ứng dụng di động miễn phí cho hộ kinh doanh quản lý thu – chi, in hóa đơn, và lưu dữ liệu giao dịch đơn giản. Dữ liệu này sẽ là cơ sở để ngân hàng cấp tín dụng mà không cần tài sản thế chấp, theo mô hình “tín dụng hành vi”. Việc xây dựng nền tảng tài chính số cho hộ kinh doanh có thể được nghiên cứu để kết hợp với thí điểm P2P lending.

Hiện thực hóa chủ trương Nghị quyết 68-NQ/TW, việc thực thi các cải cách tài chính không chỉ giúp các hộ kinh doanh cá thể tiếp cận vốn, mà còn là chìa khóa để họ trở nên văn minh hơn – minh bạch hơn – và góp phần vào một nền kinh tế công bằng, bền vững.

TS Nguyễn Hoàng Hiệp, Chủ tịch HĐKH Viện Nghiên cứu Tin học và Kinh tế Ứng dụng