Kinh tế

Giải pháp nào thúc đẩy khu công nghiệp xanh?

Tuấn Vỹ 09/06/2025 00:15

Việc chuyển đổi các KCN thông thường sang KCN xanh, công nghiệp sinh thái là hướng phát triển bắt buộc để đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường.

Chuyển đổi xanh đang là xu hướng và là một trong những giải pháp được toàn cầu hướng đến để giảm thiểu tác động của con người đối với môi trường.

Xu hướng tất yếu

Việc chuyển đổi các khu công nghiệp (KCN) thông thường sang KCN xanh, công nghiệp sinh thái là hướng phát triển tất yếu, bắt buộc để đáp ứng những yêu cầu khắt khe của thị trường về sản xuất bền vững gắn với bảo vệ môi trường thông qua các hoạt động sản xuất sạch hơn và sử dụng hiệu quả tài nguyên hoặc tái sử dụng yếu tố đầu vào, đầu ra. Về định hướng cụ thể, chuyển đổi xanh trong các KCN không chỉ là việc để phát triển, chuyển đổi cách thức kinh doanh; mà tối ưu hóa, hệ thống hóa các quy trình và mô hình kinh doanh.

378414651be5a2bbfbf4.jpg
Còn nhiều rào cản lớn trong việc chuyển đổi các KCN đã hoạt động hiện nay đáp ứng được các tiêu chí của KCN xanh.

Tuy nhiên, thực tế nhìn chung đa số các doanh nghiệp đầu tư trong các KCN tại các địa phương đều có quy mô nhỏ và còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn tài chính đầu tư nâng cấp, mở rộng, ứng dụng, chuyển giao công nghệ mới, đa dạng sản phẩm, sản xuất tuần hoàn. Cùng với đó, cơ chế, chính sách hỗ trợ công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa đủ mạnh để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, máy móc tạo sản phẩm mới, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Đến nay, vẫn chưa có “động lực” thúc đẩy các doanh nghiệp, tổ chức chuyển giao và ứng dụng, phát triển kỹ thuật – công nghệ mới. Các dự án thứ cấp tại các KCN phần lớn chưa sử dụng hết đất, hiệu quả sử dụng đất thấp; các KCN cơ cấu đa ngành nghề, một số ngành nghề phát triển thiếu bền vững, chưa tạo liên kết, hỗ trợ sản xuất, tạo chuỗi giá trị sản phẩm.

Về các thách thức, TS Phùng Tấn Viết - Nguyên Trưởng Ban quản lý Khu công nghệ cao TP Đà Nẵng cho rằng còn nhiều rào cản lớn trong việc chuyển đổi các KCN đã hoạt động hiện nay đáp ứng được các tiêu chí của KCN xanh như cạn quỹ đất và thiếu vùng đệm để phát triển, nguồn kinh phí (vốn) hỗ trợ đổi mới công nghệ còn hạn chế, thủ tục còn lắm phức tạp, chưa thực sự tạo động lực để doanh nghiệp thay đổi công nghệ sản xuất.

Theo vị này, nhiều quỹ tài chính xanh đã tạm ngưng các khoản vay hỗ trợ đổi mới công nghệ hoặc thắt chặt các chính sách, đối tượng cho vay. Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới vẫn đang từng bước phục hồi và phát triểm, việc thiếu các nguồn tài chính xanh sẽ là rào cản cho các doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ, dây chuyền sản xuất.

“Cuối cùng là các điều kiện để được công nhận là KCN xanh (sinh thái) hiện nay còn một số bất cập và chưa được hướng dẫn cụ thể. Ngoài ra, một số tiêu chí của KCN sinh thái như dữ liệu thông tin về nguyên liệu sản xuất và phát thải, mốc thời gian đối chiếu số liệu về sản xuất sạch hơn… cần được hướng dẫn chi tiết hơn để có cơ sở đánh giá”, TS Viết nói.

Giải pháp nào “trợ lực” cho KCN xanh?

Theo ông Lê Quang Triều - Phó Trưởng Ban Quản lý các Khu kinh tế và khu công nghiệp tỉnh Quảng Nam, muốn chuyển đổi xanh thành công, xây dựng KCN xanh, yếu tố quan trọng nhất là triển khai và tuyên truyền sâu rộng đến các doanh nghiệp để nâng cao nhận thức về giá trị và lợi ích của việc chuyển đổi xanh, xây dựng doanh nghiệp bền vững; đồng thời, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp tiếp cận các khoản tín dụng xanh có ưu đãi về lãi suất, thời gian vay, hoặc điều kiện vay để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các dự án xanh, thân thiện với môi trường,...

2cc2ac8e6791cecf9780.jpg
Cần chú trọng ưu tiên ngành nghề có công nghệ tiên tiến, có tính liên kết tạo chuỗi giá trị gia tăng sản phẩm xuất khẩu trong các KCN.

Từ đây, ông Triều đề xuất một số biện pháp triển khai kết nối hiệu quả như thành lập quỹ tín dụng xanh riêng cho các KCN xanh; ban hành tiêu chí đánh giá KCN xanh rõ ràng, cụ thể để hỗ trợ xét duyệt tín dụng nhanh chóng, trong đó chú trọng ưu tiên ngành nghề có công nghệ tiên tiến, có tính liên kết tạo chuỗi giá trị gia tăng sản phẩm xuất khẩu (tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm gia công lắp ráp); hình thành các tổ hợp ngành nghề, sản phẩm công nghiệp xanh; xây dựng cơ chế chia sẻ rủi ro giữa nhà nước, ngân hàng và doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý môi trường và dòng vốn; tăng cường hợp tác công - tư để đồng hành trong phát triển bền vững.

Ngoài ra, cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tín dụng xanh cụ thể; cải cách hành chính, đơn giản hóa hồ sơ; lập trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại các KCN; tăng cường phổ biến, giao lưu, học hỏi kinh nghiệm, hợp tác, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo chuyển đổi xanh cho doanh nghiệp; có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước để đáp ứng nhu cầu hoạt động và quản lý về chuyển đổi xanh, tín dụng xanh.

“Đối với các ngân hàng/tổ chức tài chính, cần xây dựng các sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu đầu tư “xanh” trong các KCN, tăng cường tiêu chí môi trường trong đánh giá tín dụng. Các chủ đầu tư hạ tầng KCN, các doanh nghiệp đầu tư trong KCN cần minh bạch các tiêu chí môi trường, lộ trình chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực lập hồ sơ, dự án đáp ứng tiêu chí tín dụng xanh và phối hợp, liên kết với các đơn vị tư vấn, ngân hàng và nhà đầu tư”, ông Triều kiến nghị.

Về tín dụng xanh, TS Lê Anh Xuân - Giám đốc NHNN Chi nhánh Khu vực 9 cho biết đến cuối tháng 3/2025, đã có 30 chi nhánh tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn Khu vực 9 phát sinh dư nợ tín dụng xanh với tổng dư nợ đạt khoảng 10.482 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng trên gần 2% trong tổng dư nợ. Trong đó tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, lãi suất cho vay các lĩnh vực xanh ngắn hạn bình quân phổ biến từ 4 - 7%/năm, trung và dài hạn bình quân từ 9-11%/năm.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, so với nhu cầu tài chính rất lớn, quy mô tín dụng xanh trên địa bàn vẫn còn khá khiêm tốn. Vị này cho rằng việc triển khai trong thực tế vẫn còn nhiều thách thức như việc đầu tư vào một số lĩnh vực xanh, công trình xanh thường đòi hỏi thời gian hoàn vốn dài, chi phí đầu tư lớn, trong khi nguồn vốn cho vay của các TCTD thường là vốn huy động ngắn hạn.

Đồng thời Chính phủ chưa ban hành danh mục phân loại xanh nên cơ sở để thống kê theo dõi đầy đủ nguồn lực mà các TCTD cung cấp cho nền kinh tế còn chưa thật sự đầy đủ. Song song với đó là nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa hiểu rõ lợi ích của tín dụng xanh hoặc thiếu thông tin về các chính sách ưu đãi,...

“Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng xanh; có cơ chế, chính sách tín dụng ưu đãi cho các ngành, lĩnh vực xanh; UBND các tỉnh/thành phố cần nghiên cứu và ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ ưu đãi đối các lĩnh vực xanh như các chính sách về thị trường, đào tạo, lao động, khoa học công nghệ, đất đai... nhằm tạo thêm nguồn lực khuyến khích chuyển đổi xanh trong nền kinh tế. Doanh nghiệp cần nhận thức rõ xu hướng tất yếu và lợi ích của việc chuyển đổi xanh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm phát triển doanh nghiệp theo mô hình bền vững (ESG); Sử dụng nguồn vốn tín dụng xanh hiệu quả, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường nhằm tránh phát sinh rủi ro trong thực hiện các dự án được cấp tín dụng”, TS Xuân kiến nghị.

Tuấn Vỹ