Đề xuất 7 chính sách đặc thù xây dựng đường vành đai 4 TP Hồ Chí Minh
Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, chiều 12/6, Quốc hội nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 TP Hồ Chí Minh.
Thông tin về Tờ trình tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trần Hồng Minh cho biết, dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 đi qua địa bàn TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Long An.

Tổng chiều dài đầu tư khoảng 159,31km bao gồm: đoạn qua tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu dài 18,23km; đoạn qua tỉnh Đồng Nai dài khoảng 46km; đoạn qua TP Hổ Chí Minh dài 20,5km và đoạn qua tỉnh Long An dài 74,5km.
Về quy mô, đường có tốc độ thiết kế 100km/h, quy mô 8 làn xe cao tốc; tổng bề rộng nền đường (bao gồm đường cao tốc và đường song hành) 74,5m.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Minh, dự án đầu tư xây dựng đường vành đai 4 TP Hồ Chí Minh được đầu tư theo phương thức PPP, loại hợp đồng BOT, bằng nguồn vốn Nhà nước và vốn nhà đầu tư.
Dự án được phân chia thành 2 nhóm với 10 dự án thành phần. Trong đó, nhóm dự án thành phần 1 (DATP 1) gồm: bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và xây dựng đường gom, đường song hành; thực hiện theo hình thức đầu tư công; Nhóm dự án thành phần 2 (DATP 2) gồm: đầu tư xây dựng phần đường cao tốc; thực hiện theo phương thức PPP, loại hợp đồng BOT.
Sơ bộ tổng mức đầu tư giai đoạn 1 (giai đoạn phân kỳ) của dự án khoảng 120.412 tỷ đồng, sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và vốn nhà đầu tư để thực hiện. Trong đó, vốn ngân sách Nhà nước khoảng 69.780 tỷ đồng (chiếm 57,95%), vốn nhà đầu tư khoảng 50.632 tỷ đồng (chiếm 42,05%).

Bộ trưởng Trần Hồng Minh cũng cho biết, Chính phủ đề xuất 7 cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện dự án đường vành đai 4 TP Hồ Chí Minh bao gồm:
Chính sách 1: Về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ dự án: Kiến nghị trong thời gian thực hiện dự án, nhà thầu thi công không phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng.
Chính sách 2: Giao Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh và Chủ tịch UBND các tỉnh (Long An, Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu) thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án thành phần.
Chính sách 3: Về trình tự, thủ tục lập, thẩm định và quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư các dự án thành phần đầu tư theo phương thức PPP. Kiến nghị đối với dự án thành phần không sử dụng vốn ngân sách trung ương tham gia dự án, khi điều chỉnh quy mô, tổng mức đầu tư tăng từ 10% và không quá 20% (đối với các dự án thành phần do UBND TP Hồ Chí Minh, UBND các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu làm cơ quan có thẩm quyền);…
Chính sách 4: Về lựa chọn đơn vị thực hiện các gói thầu tư vấn, phi tư vấn và các gói thầu để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng: Kiến nghị cho phép chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, phi tư vấn, tư vấn lập điều chỉnh quy hoạch phục vụ dự án (bao gồm khu tái định cư), các gói thầu thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định cư, thi công xây dựng hạ tầng khu tái định cư để phục vụ giải phóng mặt bằng.
Chính sách 5: Về thi tuyển phương án kiến trúc đối với các công trình cầu trong đô thị là công trình cấp II trở lên và các nút giao thông: Kiến nghị Quốc hội cho phép các cầu từ công trình cấp II trở lên và các nút giao thông trong đô thị thuộc dự án xây dựng đường Vành đai 4 TP Hồ Chí Minh không phải thi tuyển phương án kiến trúc.
Chính sách 6: Điều chỉnh hình thức đầu tư trong trường hợp không lựa chọn được nhà đầu tư.
Chính sách 7: Về thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn: Kiến nghị Quốc hội cho phép dự án không phải thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức PPP.
Báo cáo thẩm tra nội dung này, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội - Phan Văn Mãi cho biết, Ủy ban Kinh tế và Tài chính nhất trí về sự cần thiết đầu tư dự án, nhằm hiện thực hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước.
Tạo bước đột phá trong phát triển, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông, kết nối các khu công nghiệp, cảng biển và cảng hàng không quốc tế, mở ra không gian phát triển kinh tế mới, tạo động lực lan tỏa, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các địa phương có dự án đi qua nói riêng.