Nghiên cứu - Trao đổi

Từ hậu kiểm đến niềm tin thị trường

Nguyễn Giang 19/06/2025 11:05

Luật sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đánh dấu bước chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ quản lý giấy tờ sang truy xuất số…

Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng để thị trường có niềm tin, điều quyết định không chỉ nằm ở câu chữ, mà còn ở khả năng thực thi.

Tư duy quản lý theo rủi ro – bước chuyển lớn của luật mới

Chiều 18/6/2025, với 408/420 đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Luật có hiệu lực từ 1/1/2026, đánh dấu bước chuyển căn bản từ quản lý hành chính sang quản lý theo rủi ro và dữ liệu số.

tu-hau-kiem-den-niem-tin-thi-truong-1.jpg
Chiều 18/6/2025, với 408/420 đại biểu tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Ảnh: Quốc hội

Một trong những điểm đột phá của luật là phân loại sản phẩm hàng hóa thành ba nhóm: rủi ro thấp, trung bình và cao. Trên cơ sở đó, cơ quan chức năng sẽ áp dụng các biện pháp quản lý phù hợp: từ tự công bố chất lượng, chứng nhận hợp quy, cho đến hậu kiểm bắt buộc. Cách làm này kỳ vọng sẽ giúp giảm gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp, đồng thời tập trung nguồn lực vào nhóm sản phẩm tiềm ẩn rủi ro với sức khỏe, môi trường và an toàn tiêu dùng.

Một sáng tạo khác là khái niệm “hộ chiếu số” – bắt buộc với nhóm sản phẩm rủi ro cao. Theo đó, mỗi sản phẩm phải có mã vạch hoặc QR code chứa toàn bộ dữ liệu truy xuất nguồn gốc, chuỗi cung ứng, thông số kỹ thuật. Chỉ cần một thao tác quét mã, toàn bộ hành trình của sản phẩm: từ nơi sản xuất đến tay người bán sẽ hiện rõ.

Luật cũng lần đầu tiên ràng buộc trách nhiệm với thương mại điện tử. Người bán phải công bố minh bạch chất lượng sản phẩm; nền tảng phân phối phải thiết lập cơ chế xử lý khiếu nại và gỡ bỏ hàng vi phạm. Đồng thời, Luật đặt nền móng xây dựng “hạ tầng chất lượng quốc gia” (NQI), gồm tiêu chuẩn, đo lường, thử nghiệm, chứng nhận được số hóa để đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả hậu kiểm.

Tư duy quản lý theo rủi ro và ứng dụng công nghệ truy xuất, nếu được thực thi đúng, sẽ là cú hích mạnh mẽ thay đổi cách vận hành hệ thống kiểm soát chất lượng tại Việt Nam. Tuy nhiên, điều đó chỉ là khởi đầu.

Hậu kiểm có thành hình – niềm tin có hình thành?

Luật mới xác lập hành lang pháp lý rộng mở. Nhưng từ hành lang đến hành động còn một khoảng cách lớn, nhất là khi hệ thống hậu kiểm hiện nay vẫn chưa đủ lực để “đứng gác cổng” thị trường.

tu-hau-kiem-den-niem-tin-thi-truong-2(1).jpg
Hơn 3.400 hộp thực phẩm chức năng bị đổ bỏ ở ven đường Nguyễn Văn Linh (TPHCM). Ảnh: Ngọc Khải

Thực tế, năng lực kiểm tra sau cấp phép của nhiều ngành, địa phương còn mỏng. Đội ngũ nhân sự thiếu chuyên môn sâu, thiết bị lạc hậu, cơ sở dữ liệu rời rạc, khiến việc hậu kiểm phần lớn mang tính hình thức, chậm trễ và thiếu tính răn đe. Trong môi trường thương mại điện tử, tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc vẫn tràn lan. Việc truy vết sản phẩm, dù có “hộ chiếu số” cũng sẽ trở thành vô nghĩa nếu dữ liệu không được xác thực hoặc bị làm giả.

Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp, luật sư Lê Thị Nhung – Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts đánh giá cao tư duy tiếp cận mới, nhưng không khỏi băn khoăn: “Việc phân nhóm rủi ro và áp dụng hộ chiếu số là bước tiến đúng hướng, giúp nhà quản lý tập trung nguồn lực hiệu quả hơn thay vì dàn trải như trước. Tuy nhiên, cần sớm ban hành quy chuẩn rõ ràng để tránh tình trạng “đẹp hình thức, rỗng nội dung”.

Luật sư Nhung nhấn mạnh, hộ chiếu số phải là công cụ sống, được kiểm tra thường xuyên, có cơ chế xác thực rõ ràng và kết nối liên ngành.

Cùng chung mối bận tâm về tính khả thi, Luật sư Nguyễn Đức Biên – Giám đốc Công ty Luật TNHH Đại La cho rằng, Luật đã tiến một bước về tư duy, nhưng nếu thiếu chế tài đủ mạnh, hậu kiểm không có năng lực thực tế thì tất cả những gì được kỳ vọng sẽ dừng lại ở câu chữ.

“Cần thiết lập chế tài xử phạt nghiêm minh hơn, đặc biệt trong môi trường số, đồng thời giao trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ ngành và quy định hậu kiểm độc lập, có tính bắt buộc”, luật sư Biên nói.

Một trong những rủi ro được các chuyên gia cảnh báo là việc áp dụng luật mà không đi kèm danh mục hàng hóa rủi ro, không có quy trình kiểm tra rõ ràng, dễ khiến doanh nghiệp lúng túng, còn cơ quan chức năng thì “tùy nghi thi hành”. Do đó, các điều kiện đi kèm như: hướng dẫn cụ thể, công bố minh bạch danh mục sản phẩm cần hậu kiểm, chuẩn hóa quy trình truy xuất, đào tạo nhân lực hậu kiểm và công bố dữ liệu cảnh báo định kỳ – cần được thực hiện trước thời điểm luật có hiệu lực.

Bên cạnh đó, nhiều chuyên gia cũng cho rằng, ngoài cơ quan quản lý, cần huy động vai trò giám sát xã hội. Hội bảo vệ người tiêu dùng, báo chí và cộng đồng doanh nghiệp phải cùng vào cuộc để phát hiện vi phạm, phản ánh bất cập, giám sát thực thi. Chỉ khi nào người tiêu dùng thấy được phản ứng chính sách rõ ràng trước một sản phẩm sai phạm – khi đó, luật mới thực sự “đứng tên” cho chất lượng thị trường.

Suy cho cùng, luật có thể là điểm khởi đầu cho một hệ sinh thái chất lượng hàng hóa văn minh, nhưng điều quan trọng hơn nằm ở cách chúng ta biến luật thành hành động. Chất lượng không chỉ là tiêu chuẩn kỹ thuật – đó là lời cam kết với thị trường. Và muốn giữ được lời cam kết ấy, thể chế phải đủ mạnh để tự soi vào chính mình như soi vào một tấm gương phản chiếu.

Nguyễn Giang