Tài chính số

“Chìa khóa tài chính” trong thời đại số

TS Nguyễn Hoàng Hiệp - Chủ tịch HĐKH, Viện IIB 21/06/2025 03:47

Luật Công nghiệp Công nghệ số (CNCNS) 2025 không chỉ là khung pháp lý thuần túy, mà còn là “chìa khóa tài chính” giúp khơi thông các dòng vốn đầu tư công nghệ.

cong nghe
Luật CNCNS 2025 giúp khơi thông các dòng vốn đầu tư công nghệ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo trong dài hạn ở Việt Nam.

Đối với thể chế và nền kinh tế, có thể khẳng định Luật CNCNS là đòn bẩy thể chế mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình chuyển đổi số quốc gia, nâng cao năng lực cạnh tranh, và cải thiện chất lượng sống. Đặc biệt, việc ưu tiên sử dụng sản phẩm công nghệ trong và ngoài nước sẽ tạo điều kiện cho “Make in Vietnam” trở thành hành động thực tiễn.

Khơi thông nguồn vốn

Luật CNCNS 2025 mang lại nhiều giá trị thiết thực và chiến lược, đặc biệt trong việc tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, an toàn, hiệu quả và định hướng dài hạn cho lĩnh vực công nghệ số, cụ thể:

Trước hết, lần đầu tiên có một luật riêng giúp định danh rõ ràng các lĩnh vực công nghiệp số, như sản phẩm số, phần mềm, hạ tầng dữ liệu, trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, AI, IoT, thiết bị đầu cuối, công nghệ lõi. Điều này giúp nhà đầu tư nội và ngoại có cơ sở pháp lý rõ ràng, tránh rủi ro pháp lý, từ đó thu hút vốn FDI vào các dự án công nghệ giá trị cao (R&D, sản xuất bán dẫn, data center…). Luật cũng khuyến khích liên doanh – liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Việt, đi kèm ưu đãi thuế khi chuyển giao công nghệ, giúp khơi thông dòng vốn.

Thứ hai, ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) dài hạn với các dự án công nghệ số quy mô lớn, đặc biệt trong các lĩnh vực ưu tiên như AI, bán dẫn, an toàn thông tin, hạ tầng dữ liệu. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được tính chi phí R&D cao hơn 2 - 3 lần khi tính thuế TNDN, làm tăng lợi nhuận sau thuế và cải thiện dòng tiền tái đầu tư. Các khoản chi cho đổi mới sáng tạo được tính là chi phí hợp lệ, giúp thu hút dòng vốn mạo hiểm vào startup công nghệ.

Thứ ba, cơ chế mới về hình thành và vận hành “Khu công nghiệp (KCN) công nghệ số”: quy định phân cấp cho địa phương phê duyệt, vận hành các KCN công nghệ số, cho phép địa phương chủ động kêu gọi đầu tư, bố trí quỹ đất, triển khai hạ tầng nhanh chóng. Các KCN này được áp dụng “luồng xanh” trong hải quan, logistics, giảm chi phí và thời gian cho nhà đầu tư. Nhờ vậy, dòng vốn từ cả nhà đầu tư chiến lược trong và ngoài nước sẽ được rót vào các khu vực hạ tầng sẵn sàng, tránh tình trạng “vốn chờ cơ chế”.

“Mở khóa” vốn con người và vốn trí tuệ

Luật CNCNS 2025 cho phép ưu đãi cá nhân làm việc trong ngành công nghệ số: miễn thuế thu nhập cá nhân 5 năm, cấp visa 5 năm cho chuyên gia nước ngoài, giúp hút nhân tài quốc tế về Việt Nam. Đây là một dạng “vốn chất xám”, bổ sung cho “vốn tài chính” nhằm tạo sức bật cho hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

TS Nguyễn Hoàng Hiệp
TS Nguyễn Hoàng Hiệp

Đặc biệt, Luật khuyến khích phát triển tài sản số – mở đường cho tài chính số. Luật bước đầu định nghĩa khung pháp lý về tài sản số, giúp các sản phẩm công nghệ có thể được định giá, bảo hộ, chuyển nhượng và dùng làm tài sản bảo đảm. Điều này mở ra cơ hội cho doanh nghiệp số tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng hoặc phát hành chứng khoán/tài sản số hóa trong tương lai.

Như vậy, Luật CNCNS 2025 giúp khơi thông các dòng vốn đầu tư công nghệ, từ FDI, vốn tư nhân, vốn đầu tư mạo hiểm đến tín dụng ngân hàng và tài chính số. Luật tạo tiền đề để công nghiệp công nghệ số trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hút vốn chất lượng cao, thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo trong dài hạn cho Việt Nam.

Cũng phải nói thêm ở góc độ kênh đầu tư hàng hóa, Luật CNCNS 2025 có thể chưa trực tiếp tạo ra các “hàng hóa vật lý” theo nghĩa truyền thống như vàng, dầu, hay lúa mì, nhưng lại mở ra một loại "hàng hóa công nghệ số" hoàn toàn mới – từ phần mềm, dữ liệu, tài sản số đến các thiết bị công nghệ cao, góp phần hình thành một kênh đầu tư hấp dẫn, có giá trị tăng trưởng cao trong dài hạn. Khi công nghệ số trở thành một loại “hàng hóa đầu tư mới”, có thể sản xuất, sở hữu, mua bán, chuyển nhượng, định giá – giống như các loại tài sản đầu tư khác, nhà đầu tư cá nhân và tổ chức hoàn toàn có thể rót vốn vào: các doanh nghiệp công nghệ số (qua cổ phiếu, trái phiếu); các trung tâm dữ liệu hoặc dự án nền tảng số; các quỹ đầu tư mạo hiểm, ETF chuyên ngành công nghệ số tại Việt Nam; các tài sản số nếu sau này được pháp luật hóa sâu hơn (ví dụ như NFT, token hóa tài sản, chứng quyền phần mềm…).

Cùng với phát triển tài sản số – hình thành thị trường hàng hóa số khi được đưa vào khung pháp lý chính thức, là bước đệm để hàng hóa công nghệ số có thể trở thành đối tượng đầu tư, giao dịch, định giá trên thị trường thứ cấp, giống như chứng khoán, bất động sản… Từ đó, mở ra cơ hội cho phát triển các công cụ tài chính phái sinh khi về dài hạn, thị trường đủ lớn, sân chơi được tạo lập minh bạch, rõ ràng. Đây là bệ phóng để trong tương lai, khi hệ sinh thái công nghệ số phát triển đầy đủ, Việt Nam hoàn toàn có thể có thị trường hàng hóa số chuyên biệt, tương đương với thị trường chứng khoán, bất động sản hay hàng hóa truyền thống.

TS Nguyễn Hoàng Hiệp - Chủ tịch HĐKH, Viện IIB