24h

Có được “chuyển nhượng” Giấy Chứng nhận bảo hiểm Trách nhiệm dân sự khi chuyển quyền sở hữu xe?

Thái Văn Cách (Bảo hiểm DBV) 15/07/2025 04:00

Dù là loại bảo hiểm bắt buộc, nhưng không ít chủ xe không biết quy định bảo hiểm TNDS khi chuyển quyền sở hữu xe, nên khi không may gây tai nạn chủ xe gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết sự cố.

Bảo hiểm Trách nhiệm dân sự (TNDS) chủ xe cơ giới là một loại bảo hiểm bắt buộc theo Nghị định 67/2023/CP-NĐ ngày 06/9/2023 của Chính Phủ, theo đó đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba và hành khách. Khi mua bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, chủ xe cơ giới được doanh nghiệp bảo hiểm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm. Mỗi xe cơ giới được cấp 1 Giấy chứng nhận bảo hiểm. Chủ xe cơ giới bị mất Giấy chứng nhận bảo hiểm phải có văn bản đề nghị doanh nghiệp bảo hiểm cấp lại Giấy chứng nhận bảo hiểm.

cach1.png

Theo quy định của Nghị định 67/2023 thì : “Trường hợp xe cơ giới bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an, hợp đồng bảo hiểm chấm dứt kể từ thời điểm bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm hoàn phí bảo hiểm đã đóng cho bên mua bảo hiểm tương ứng với thời hạn còn lại của hợp đồng bảo hiểm kể từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm chấm dứt”.

Tuy nhiên, dù là loại bảo hiểm bắt buộc, không ít chủ xe cũng không biết quy định này khi chuyển quyền sở hữu xe và người nhận quyền sở hữu xe tức chủ xe mới cũng không biết quy định này nên 2 bên đã ”vô tư” chuyển nhượng luôn cả ”Giấy chứng nhận bảo hiểm Trách nhiệm dân sự chủ xe”, hậu quả là khi không may gây tai nạn chủ xe gặp rất nhiều khó khăn khi giải quyết sự cố và làm việc với doanh nghiệp bảo hiểm để yêu cầu được bồi thường.

Thông tư số 24/2023/TT-BCA của Bộ Công an (khoản 4 Điều 6) quy định về trách nhiệm của chủ xe như sau: “Khi bán, tặng cho, thừa kế, trao đổi, góp vốn, phân bổ, điều chuyển xe (sau đây gọi chung là chuyển quyền sở hữu xe): Chủ xe phải giữ lại chứng nhận đăng ký xe, biển số xe (không giao cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu xe) và nộp cho cơ quan đăng ký xe chứng nhận đăng ký xe, biển số xe để làm thủ tục thu hồi; trường hợp chuyển quyền sở hữu xe kèm theo biển số xe trúng đấu giá thì chủ xe nộp cho cơ quan đăng ký xe chứng nhận đăng ký xe để làm thủ tục thu hồi.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm giấy tờ chuyển quyền sở hữu xe, chủ xe phải làm thủ tục thu hồi; trường hợp quá thời hạn trên mà chủ xe không làm thủ tục thu hồi hoặc giao chứng nhận đăng ký xe, biển số xe cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu xe làm thủ tục thu hồi thì trước khi giải quyết cơ quan đăng ký xe ra quyết định xử phạt đối với chủ xe về hành vi không làm thủ tục thu hồi theo quy định.

Trường hợp chủ xe không làm thủ tục thu hồi sau khi chuyển quyền sở hữu xe thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi vi phạm liên quan đến xe đó; Sau khi chủ xe làm thủ tục thu hồi, tổ chức, cá nhân nhận chuyển quyền sở hữu làm thủ tục đăng ký sang tên xe theo quy định

Như vậy, các trường hợp chuyển quyền sở hữu xe nêu trên đều thuộc quy định phải thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký xe và Biển số xe đồng nghĩa với việc chấm dứt Hợp đồng bảo hiểm/Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hình thức bắt buộc quy định tại Nghị định 67/2023. Nếu muốn “chuyển nhượng Giấy chứng nhận bảo hiểm” thì ngay khi chuyển giao quyền sở hữu xe, chủ sở hữu có tên trên Giấy chứng nhận bảo hiểm phải thông báo cho Doanh nghiệp bảo hiểm để làm thủ tục “cấp đổi Giấy chứng nhận bảo hiểm” cho chủ xe mới nếu không muốn được hoàn phí cho thời gian còn lại theo quy định.

Có ý kiến cho rằng chủ sở hữu cũ đã nộp đủ phí bảo hiểm và không thực hiệm chấm dứt Hợp đồng bảo hiểm, không thu hồi Giấy chứng nhận bảo hiểm thì việc chủ sở hữu mới được sử dụng Giấy chứng nhận bảo hiểm là hợp lý, nếu tai nạn xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm nên làm thủ tục bồi thường hoặc khi đó cấp đổi Giấy chứng nhận bảo hiểm cho chủ xe mới để làm thủ tục bồi thường.

Theo quy định của Điều 10 Nghị định 67/2023 về Giấy Chứng nhận bảo hiểm thì: “Giấy chứng nhận bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm chủ động thiết kế và phải bao gồm các nội dung sau đây: Tên, địa chỉ, số điện thoại (nếu có) của chủ xe cơ giới. Biển số xe và số khung, số máy và ngày, tháng, năm cấp Giấy chứng nhận bảo hiểm”.

Cũng theo Nghị định 67/2023 về Hồ sơ bồi thường, bên cạnh một số tài liệu khác, Hồ sơ cần có: “Giấy chứng nhận đăng ký xe (hoặc bản sao được chứng thực từ bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe kèm bản gốc Giấy biên nhận của tổ chức tín dụng còn hiệu lực, thay cho bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe trong thời gian tổ chức tín dụng giữ bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe) hoặc chứng từ chuyển quyền sở hữu xe và chứng từ nguồn gốc xe (trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký xe) và Giấy chứng nhận bảo hiểm.

Như vậy, chủ xe mới không thể sử dụng Giấy chứng nhận bảo hiểm (cũ) khi xe chưa sang tên đổi chủ, chưa thay Biển kiểm soát để yêu cầu bồi thường vì Hồ sơ mang tên chủ cũ, biển số xe cũ trong khi tại nạn do 1 xe mang biển số khác gây ra. Khi đó, doanh nghiệp bảo hiểm không thể cấp đổi Giấy chứng nhận bảo hiểm mới để bồi thường vì vào thời điểm đó xe đã mang Biển số khác và quan trọng là tai nạn đã xảy ra. Hợp đồng bảo hiểm/Giấy chứng nhận bảo hiểm sẽ bị coi là vô hiệu. Nếu cố tình sửa đổi hồ sơ để bồi thường bảo hiểm thì cả chủ xe lẫn doanh nghiệp bảo hiểm có thể vi phạm Điều 213 Bộ luật Hình sự về hành vi “Giả mạo tài liệu, cố ý làm sai lệch thông tin trong hồ sơ yêu cầu bồi thường, trả tiền bảo hiểm”.

Thái Văn Cách (Bảo hiểm DBV)