Du lịch

Để phát huy tiềm năng du lịch Việt Nam

Nguyễn Chuẩn - Thu Duyên 16/08/2025 01:57

Du lịch Việt Nam có tất cả, từ cảnh quan, văn hóa, con người. Điều cần thêm là bản lĩnh chính sách và chiến lược thực thi.

Ông Phạm Thanh Chiến, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Hạ Long Pacific:

Trước đại dịch, Việt Nam đón khoảng 18 triệu khách quốc tế và thu về khoảng 32,8 tỷ USD. Con số đó nghe có vẻ lớn. Nhưng so với Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, những điểm đến đang dẫn đầu khu vực, chúng ta vẫn kém một bậc. Thái Lan năm 2019 đón gần 40 triệu lượt; Nhật Bản có mức chi tiêu bình quân cao nhất châu Á; Hàn Quốc nổi bật ở MICE (loại hình du lịch kết hợp các hoạt động hội họp, khen thưởng, hội nghị, và triển lãm) và văn hóa. Sau giai đoạn phục hồi, khoảng cách ấy vẫn hiển hiện.

ptc(1).jpg
Ông Phạm Thanh Chiến, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần Hạ Long Pacific phát biểu tại hội nghị Diễn đàn Kinh tế tư nhân Trung du Bắc Bộ.

Theo tôi, vấn đề đầu tiên là hạ tầng chưa đồng bộ. Một quốc gia muốn đón khách có trải nghiệm cao cấp cần sân bay quốc tế ở những vùng trọng yếu, cảng tàu du lịch chuẩn quốc tế, cùng mạng lưới giao thông nội vùng thông suốt. Thực tế cho thấy nhiều điểm đến đẹp nhưng khó tiếp cận, hoặc khi đã đến thì dịch vụ nội vùng khiến trải nghiệm bị hạ thấp. Du lịch không thể phát triển khi “cửa trước” đã tốt nhưng “cửa sau” thì lỏng lẻo.

Thứ hai, chất lượng dịch vụ thiếu tính đồng đều. Những câu chuyện “chặt chém” hay chèo kéo khách còn xuất hiện khiến niềm tin du khách lung lay. Dịch vụ du lịch cần tiêu chuẩn hóa và thanh tra thực thi nghiêm. Khách quốc tế không chỉ trả tiền cho cảnh quan; họ trả cho cảm giác an toàn, minh bạch và tôn trọng.

Thứ ba, thương hiệu quốc gia chưa đủ mạnh. Những chiến dịch như “Amazing Thailand” hay “Imagine Your Korea” đã biến các quốc gia này thành một ý niệm dễ nhận diện. Chúng ta có di sản, có ẩm thực, có con người hiếu khách, nhưng thiếu đi một chiến dịch quảng bá dài hạn, thông minh và có khả năng lan tỏa toàn cầu. Một thương hiệu quốc gia không xuất hiện trong một sớm một chiều. Nó cần chiến lược, ngân sách và sự kiên trì.

Chính sách thị thực cũng là rào cản. Miễn thị thực cho quá ít quốc gia và thủ tục chồng chéo khiến nhiều khách hàng tiềm năng chọn điểm đến dễ tiếp cận hơn. Đối với khách MICE, du lịch tàu biển hay khách cao cấp, sự linh hoạt trong thị thực là yếu tố quyết định. Nếu muốn tăng lượng khách chất lượng cao, chúng ta phải thiết kế chính sách phù hợp.

Môi trường bền vững là điểm yếu khác. Nhiều địa danh đang quá tải. Rác thải, nước thải và quản lý tải lượng khách chưa được xử lý triệt để. Du lịch bền vững không chỉ là khẩu hiệu. Đó là điều kiện để bảo tồn tài nguyên cho thế hệ sau và để ngành tiếp tục khai thác lâu dài.

Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu quốc tế. Thiếu nhân sự được đào tạo chuyên sâu, kỹ năng ngoại ngữ và kỹ năng phục vụ cao cấp làm giảm cơ hội thu hút phân khúc khách chi tiêu lớn. Ứng dụng công nghệ vẫn manh mún; AI, Big Data, AR/VR chưa được tận dụng để nâng cao trải nghiệm và tối ưu quản lý. An toàn, cứu hộ chưa đủ mạnh; phản ứng sự cố nhiều nơi vẫn chậm.

Từ những hạn chế đó, tôi đề xuất một chuỗi giải pháp thiết thực, có thể triển khai theo tinh thần Nghị quyết 68/NQ-CP. Trước hết là phát triển hạ tầng chiến lược và kết nối vùng. Không nên chỉ tập trung vào một vài đầu mối. Mở rộng sân bay quốc tế, xây cảng tàu khách đạt chuẩn và hoàn thiện cao tốc, đường sắt kết nối các trung tâm du lịch là điều kiện tiên quyết để nâng tầm trải nghiệm.

Tiếp đó, chuẩn hóa dịch vụ phải trở thành yêu cầu bắt buộc. Bộ tiêu chuẩn dịch vụ du lịch quốc gia cần được xây dựng và áp dụng rộng rãi. Cùng với đó, nghiêm trị các hành vi trục lợi du khách. Niềm tin một khi mất sẽ rất khó phục hồi.

ben1(1).jpg
Du lịch Việt Nam cần những chiến lược dài hơi.

Thương hiệu quốc gia cần chiến dịch dài hơi. “Vietnam – Live the Wonder” có thể là một điểm khởi đầu nếu đi kèm kế hoạch truyền thông, hợp tác với KOLs, nền tảng quốc tế và sự tham gia thường xuyên tại các hội chợ du lịch lớn. Nhưng thương hiệu không chỉ là quảng cáo. Nó phải phản ánh trải nghiệm thực tế trên mặt đất.

Cải cách thị thực là giải pháp mang tính đột phá. Mở rộng miễn thị thực cho các quốc gia trọng điểm, áp dụng e-visa nhiều lần cho khách cao cấp và MICE sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh. Đồng thời, cần có chính sách riêng cho du lịch tàu biển và khách quay lại nhiều lần.

Phát triển sản phẩm du lịch mang tính biểu tượng từng vùng là yếu tố quyết định để tạo sự khác biệt. Mỗi vùng nên có một hai sản phẩm tiêu biểu, có khả năng thu hút khách quốc tế quanh năm. Khai thác du lịch đêm, phát triển sản phẩm cho mùa thấp điểm sẽ giúp gia tăng nguồn thu và việc làm địa phương.

Du lịch bền vững phải được đặt lên hàng đầu. Giới hạn tải khách tại các điểm nhạy cảm, thành lập quỹ du lịch bền vững và bắt buộc xử lý rác thải, nước thải đạt chuẩn là những bước không thể trì hoãn. Bền vững là bảo vệ tài sản du lịch cho tương lai.

Nguồn nhân lực cần chiến lược dài hạn. Thành lập học viện du lịch quốc tế hợp tác với các nước có nền du lịch phát triển sẽ giúp đào tạo đội ngũ chuyên nghiệp. Đào tạo ngoại ngữ, kỹ năng phục vụ cao cấp và khả năng thích ứng với tiêu chuẩn quốc tế là điều bắt buộc.

Chuyển đổi số ngành du lịch còn là cơ hội lớn. Một ứng dụng du lịch quốc gia tích hợp bản đồ số, vé điện tử, thanh toán online và phản hồi dịch vụ sẽ thay đổi trải nghiệm du khách. Ứng dụng AI và Big Data sẽ giúp phân tích xu hướng, tối ưu tiếp thị và quản lý điểm đến.

Cuối cùng, an toàn và cứu hộ phải chuyên nghiệp. Trang bị GPS/AIS cho tàu du lịch, lắp đặt hệ thống giám sát cho phương tiện du lịch và thành lập trung tâm cứu hộ quốc gia với quy trình phản ứng nhanh sẽ tạo cảm giác an toàn cho du khách. Theo tôi, quy trình phản ứng cứu nạn, cứu hộ quốc gia khẩn cấp chỉ 5 đến 10 phút, để đảm bảo cho an toàn du lịch quốc gia và địa phương.

Khi các giải pháp này được triển khai đồng bộ, tôi tin Việt Nam có thể đón 35 triệu khách quốc tế và đạt doanh thu 60 tỷ USD vào năm 2035. Con số đó không phải là giấc mơ viển vông. Đó là mục tiêu có thể chạm tới nếu chúng ta đổi mới tư duy, dứt khoát trong hành động và phối hợp nhịp nhàng giữa Nhà nước và doanh nghiệp.

Nguyễn Chuẩn - Thu Duyên