Nghiên cứu - Trao đổi

Xóa nợ thuế: Cần nhân văn nhưng phải nghiêm minh

Nguyễn Giang 27/08/2025 04:00

Đề xuất xóa nợ thuế cho trường hợp bất khả kháng đang gây tranh luận. Nhiều ý kiến cho rằng, chính sách cần nhân văn, nhưng phải chặt chẽ, minh bạch để tránh tiền lệ xấu…

Bộ Tài chính vừa công bố dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), trong đó mở rộng các trường hợp được xóa nợ thuế. Theo dự thảo, chỉ những khoản nợ thực sự không thể thu hồi mới được xem xét, như doanh nghiệp phá sản, giải thể nhưng không còn tài sản; cá nhân mất năng lực hành vi dân sự; nợ kéo dài trên 10 năm; hoặc phát sinh từ những sự kiện bất khả kháng như thiên tai, dịch bệnh.

Tuy nhiên, các khoản liên quan đến tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền phạt chậm nộp sẽ không thuộc diện xóa, nhằm hạn chế tranh chấp pháp lý và giữ kỷ luật ngân sách.

xoa-no-thue-can-nhan-van-nhung-phai-nghiem-minh-1.jpg
Đề xuất xóa nợ thuế cho trường hợp bất khả kháng đang gây tranh luận. Ảnh minh hoạ

Mục tiêu của đề xuất này là xử lý khối nợ “chết” tồn đọng nhiều năm, vừa làm trong sạch sổ sách, vừa tập trung nguồn lực cho quản lý hiệu quả hơn. Thống kê cho thấy, chỉ trong giai đoạn 2016 - 2023, số nợ thuế không còn khả năng thu hồi đã lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng, phần lớn từ các doanh nghiệp phá sản, mất tích hoặc giải thể kéo dài.

Trao đổi với Diễn đàn Doanh nghiệp về nội dung này, Luật sư Lê Thị Nhung - Giám đốc Công ty Luật L&A Legal Experts (Đoàn Luật sư Hà Nội) cho rằng, về nguyên tắc, thuế là nghĩa vụ bắt buộc và bình đẳng của mọi tổ chức, cá nhân. Việc xóa nợ thuế chỉ nên áp dụng cho những trường hợp thực sự bất khả kháng, để bảo đảm tính nhân văn và tính khả thi trong công tác quản lý. Nếu phạm vi quá rộng hoặc thiếu tiêu chí chặt chẽ, chính sách có thể vô tình trở thành tiền lệ xấu, khuyến khích sự chây ỳ và làm suy yếu kỷ luật thuế.

Bà phân tích rằng doanh nghiệp đã phá sản, được tòa án tuyên bố không còn khả năng thanh toán thì việc xóa nợ là hợp lý. Nhưng nếu chỉ khó khăn tạm thời hoặc cố tình kéo dài nghĩa vụ thì không thể đưa vào diện này. Nếu không rạch ròi, sẽ hình thành tâm lý “nợ rồi cũng sẽ được xóa”, gây bất công với những người chấp hành nghiêm túc nghĩa vụ thuế.

Theo luật sư, điểm then chốt là cơ chế giám sát. Quyết định xóa nợ phải minh bạch, có sự giám sát độc lập, công khai danh sách, lý do và mức nợ được xóa để tránh biến thành cơ chế “xin - cho”. Nếu thiếu minh bạch, dư luận sẽ mất niềm tin và dễ xuất hiện nghi ngại về tiêu cực hay lợi ích nhóm.

Bà Nhung cũng nhấn mạnh rằng các biện pháp cưỡng chế cần được áp dụng theo hướng ưu tiên tài chính trước tiên, như khấu trừ tài khoản, phong tỏa tài sản, kê biên và bán đấu giá… Chỉ khi các biện pháp này thất bại mới nên cân nhắc đến các biện pháp hành chính mạnh như cấm xuất cảnh.

“Cấm xuất cảnh chỉ nên là giải pháp cuối cùng, áp dụng ở ngưỡng nợ đủ lớn, để không ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh và đi lại của người dân”, bà nói.

Nhìn xa hơn, luật sư Nhung kiến nghị cần phân loại nợ thuế thành nhiều nhóm: nợ do bất khả kháng, nợ do gian lận và nợ do khó khăn tạm thời. Với mỗi nhóm phải có cách xử lý riêng, từ xóa nợ, khoanh nợ đến cưỡng chế nghiêm ngặt để vừa thể hiện sự nhân văn, vừa không buông lỏng kỷ luật tài chính quốc gia.

“Chỉ như vậy, chính sách xóa nợ thuế mới có thể bền vững và tránh bị lợi dụng”, luật sư Lê Thị Nhung nhấn mạnh.

Nguyễn Giang