Doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh thúc đẩy tăng năng suất lao động
Các chính sách để tăng năng suất lao động cần hướng đến phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân lớn và phát triển nền công nghiệp mạnh.
Điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng cao
Tăng năng suất lao động là một trong những điều kiện tiên quyết đưa Việt Nam thoát bẫy thu nhập trung bình và duy trì tăng trưởng cao cho nền kinh tế cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của từng doanh nghiệp. GS Trần Văn Thọ - Giáo sư danh dự tại Đại học Waseda (Nhật Bản) nhìn từ kinh nghiệm và tham chiếu lý luận tại một số quốc gia tại Đông Á đã chỉ ra rằng, nền kinh tế phải được chuyển dịch cơ cấu từ hàm lượng lao động giản đơn sang hàm lượng lao động kỹ năng cao, công nghệ cao hơn.
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm - nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê) khi chia sẻ với báo chí cũng đồng quan điểm. Theo đó, tăng năng suất lao động là mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia trên thế giới đang hướng đến, nhất là những nước đang phát triển để thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình”.

Yêu cầu này càng trở nên quan trọng hơn trong bối cảnh hiện nay khi các yếu tố đầu vào của nền kinh tế như vốn, đất đai, tài nguyên trở nên khan hiếm. Trong khi đó, Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới sẽ tác động đến nguồn lao động.
Do đó, mô hình tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ sẽ không thể bền vững được, nhất là khi các công nghệ cao, tự động hoá, robot, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn... đang phát triển mạnh mẽ, có năng suất lao động tốt hơn, có khả năng cạnh tranh cao, thậm chí đang thay thế cho một bộ phận lao động giản đơn.
Tăng năng suất lao động vì thế đang trở nên cấp bách. Tuy nhiên, thực tế, những năm gần đây, năng suất lao động của Việt Nam đã cải thiện nhưng vẫn ở mức thấp. Thực trạng này được GS Trần Văn Thọ lý giải từ 2 nguyên nhân chính.
Thứ nhất, khu vực công nghiệp được biết đến là lĩnh vực năng động, dễ áp dụng công nghệ và dễ tăng năng suất. Nhưng, khác với các nước có ngành công nghiệp phát triển đã tận dụng hiệu quả giai đoạn dân số vàng để phát triển công nghiệp và tăng năng suất thì tỷ lệ công nghiệp trong GDP của Việt Nam không cao dù giai đoạn dân số vàng sắp kết thúc.
Hơn nữa, dù đã tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu nhưng trong “đường cong nụ cười” của chuỗi, vị trí của doanh nghiệp trong nước chủ yếu là gia công, lắp ráp, vừa không gia tăng giá trị hàng hoá vừa không thúc đẩy cải thiện năng suất.
Thứ hai, sự yếu kém của khu vực tư nhân với nhiều doanh nghiệp SME gặp không ít khó khăn trong tiếp cận vốn, thách thức trong thủ tục hành chính phức tạp, hạn chế trong R&D và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Do đó, ngành công nghiệp hỗ trợ chưa thể bứt phá mạnh mẽ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia chuỗi.
Doanh nghiệp lớn và công nghiệp mạnh
Chuyên gia kinh tế Nguyễn Bích Lâm cho rằng, với khoảng cách khá xa so với những nước đứng đầu ASEAN, Việt Nam cần tập trung phát triển khoa học công nghệ, đi tắt đón đầu mới có khả năng đuổi kịp. Trong đó, cần chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế dựa chủ yếu vào các yếu tố truyền thống như vốn đầu tư, tài nguyên thiên nhiên, lao động sang mô hình tăng trưởng dựa nhiều hơn vào khoa học công nghệ, máy móc hiện đại, tự động hoá…

Trong khi đó, GS Nguyễn Văn Thọ đi sâu hơn khi đề xuất cần đồng thời phát triển mạnh khu vực doanh nghiệp tư nhân kết hợp với phát triển công nghiệp mạnh và chính sách liên quan đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng…
Doanh nghiệp lớn mạnh là điều kiện để đầu tư hiệu quả và đẩy mạnh đổi mới sáng tạo. Kinh nghiệm ở một số quốc gia cho thấy, các dự án đầu tư ngày càng lớn với nhu cầu nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới, có độ rủi ro cao thì chỉ doanh nghiệp lớn mới có thể chống chịu. Song song với đó là chính sách nuôi dưỡng để doanh nghiệp nhỏ lớn mạnh thành doanh nghiệp vừa, tạo bước đệm phát triển tiếp đến lớn mạnh, bổ sung cho lực lượng doanh nghiệp lớn mạnh.
Do đó, cần tạo cơ chế để các doanh nghiệp này cùng chia sẻ với nhà nước về tầm nhìn dài hạn của kinh tế trong tương lai; khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp lớn cùng với nhà nước thực hiện các dự án nghiên cứu công nghệ. Theo GS Nguyễn Văn Thọ, hiện chi cho R&D trong GDP còn quá thấp và đóng góp của doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ.
Với chính sách công nghiệp hóa, Việt Nam có thể mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu những ngành đã có hoặc phát triển những ngành mới mà nhu cầu trong nước, thế giới dự báo tăng nhanh. Đi liền với đó là cải thiện môi trường kinh doanh, thể chế chính sách minh bạch, phát triển công nghiệp hỗ trợ, thu hút vốn đầu tư từ doanh nghiệp.