Thị trường

“Hộ chiếu xanh” cho vật liệu xây dựng

Như Quỳnh 22/09/2025 13:08

Dán nhãn năng lượng cho vật liệu xây dựng (VLXD) được xem là cơ hội để doanh nghiệp khẳng định chất lượng và vị thế sản phẩm trong bối cảnh yêu cầu ngày càng khắt khe hơn từ thị trường quốc tế.

asphalt-3-scaled.jpg
Vật liệu Carboncor Asphalt có thể giảm phát thải tới 79% và giảm tiêu thụ năng lượng tới 80% so với vật liệu truyền thống.

Theo quy định tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả có hiệu lực từ 1/1/2026, VLXD sẽ được dán nhãn năng lượng.

Doanh nghiệp sẵn sàng

Việc dán nhãn năng lượng cho VLXD là cơ hội để doanh nghiệp nâng cao giá trị sản phẩm và thúc đẩy ngành xây dựng chuyển đổi theo hướng xanh, hiệu quả và minh bạch. “Chúng tôi đã và đang rà soát, đánh giá hiệu suất năng lượng trên toàn bộ quy trình sản xuất; đồng thời tổ chức đào tạo nội bộ, đảm bảo khi luật chính thức có hiệu lực sẽ đáp ứng đầy đủ và kịp thời”, bà Lê Ngọc Thúy, Phó Giám đốc Công ty CP Công nghiệp Á Mỹ (AMY Group) chia sẻ.

TS Nguyễn Văn Tường, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Carbon Việt Nam cho biết, Carbon Việt Nam đã hợp tác với Trường Đại học Giao thông vận tải để thực hiện các nghiên cứu đánh giá "năng lượng tiêu thụ và phát thải khí nhà kính của Carboncor Asphalt". Hiện tại, vật liệu Carboncor Asphalt có thể giảm phát thải tới 79% và giảm tiêu thụ năng lượng tới 80% so với vật liệu truyền thống. Ngoài ra, Công ty đang phát triển các dòng bê tông Carboncor Asphalt màu có tính phản xạ cao, thân thiện với môi trường, giảm nhiệt độ bề mặt đường giao thông...

Theo bà Nguyễn Thị Tâm, Giám đốc Trung tâm Thiết bị, Môi trường và An toàn lao động (Viện VLXD, Bộ Xây dựng), việc dán nhãn góp phần định hướng thị trường VLXD theo hướng hiệu quả hơn về năng lượng, giảm phát thải khí CO2.

Các chuyên gia cũng cho rằng, việc dán nhãn năng lượng sẽ là tiêu chí bắt buộc trong quy hoạch và đầu tư xây dựng mới. Theo ông Douglas Lee Snyder, Giám đốc điều hành Hội đồng Công trình xanh Việt Nam (VGBC), dán nhãn năng lượng VLXD góp phần chỉ ra tỷ lệ carbon hàm chứa trong sản phẩm. Việc này càng quan trọng khi xuất khẩu các sản phẩm VLXD, nhất là khi xuất khẩu sang châu Âu. Bởi vì, châu Âu có tiêu chuẩn CBAM đánh giá phát thải carbon cho vật liệu.

Cơ hội cạnh tranh công bằng

Tuy nhiên, ông Douglas Lee Snyder chỉ rõ, nếu Việt Nam muốn xuất khẩu VLXD thì cần phải minh bạch trong việc kê khai các con số này. Việc dán nhãn xanh nội địa tại Việt Nam góp phần tăng tính công khai, minh bạch carbon hàm chứa trong VLXD. “VGBC cũng đưa việc tính toán cacbon hàm chứa trong VLXD là một trong những tiêu chí bắt buộc trong hệ thống đánh giá Công trình xanh LOTUS phiên bản 4”, ông Douglas Lee Snyder khuyến nghị.

Ông Nguyễn Công Thịnh – Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học công nghệ, môi trường và VLXD (Bộ Xây dựng) cho biết, doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng rà soát và đánh giá lại danh mục sản phẩm, tiến hành kiểm định thử nghiệm về hiệu quả năng lượng theo tiêu chuẩn quốc gia. Đây là bước then chốt để có đủ dữ liệu phục vụ dán nhãn, đồng thời cũng là cơ hội để doanh nghiệp nhận diện đâu là sản phẩm chưa đạt chuẩn, từ đó cải tiến công nghệ hoặc loại bỏ.

Bên cạnh đó, việc đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất sẽ trở thành yêu cầu tất yếu. Với xu hướng vật liệu xanh, nhiều sản phẩm như gạch không nung, xi măng ít clinker… đã chứng minh khả năng cạnh tranh không chỉ trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Một khi nhãn năng lượng trở thành công cụ minh bạch, những doanh nghiệp chậm đổi mới sẽ khó trụ vững, trong khi doanh nghiệp tiên phong sẽ hưởng lợi.

Đặc biệt, các doanh nghiệp phải chú trọng khâu công bố thông tin. Quy định pháp luật mới yêu cầu các sản phẩm trước khi lưu thông phải có nhãn năng lượng và đi kèm với dữ liệu về mức tiêu thụ năng lượng, phát thải. Điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp cần thiết lập hệ thống quản lý dữ liệu khoa học, đồng bộ và minh bạch. Nếu coi đây là gánh nặng, doanh nghiệp có thể chùn bước, nhưng nếu coi là cơ hội, việc minh bạch dữ liệu sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng thương hiệu bền vững.

Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước. Quá trình thử nghiệm, dán nhãn, giám sát đòi hỏi sự kết nối giữa các viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm và doanh nghiệp sản xuất. Điều này vừa giúp giảm chi phí, vừa tạo nên hệ sinh thái minh bạch và hiệu quả.

Như Quỳnh