Kinh tế

Thách thức không nhỏ cho xuất khẩu Việt Nam vào cuối năm

Tuấn Vỹ 02/10/2025 13:50

Trong những tháng cuối năm 2025, xuất khẩu Việt Nam đối diện với những thách thức không nhỏ, các nguyên nhân đến từ cả yếu tố bên ngoài và yếu tố nội tại.

Đó là thông tin từ ông Lê Hoàng Tài – Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tại Hội nghị kết nối giao thương, xúc tiến xuất khẩu – Đà Nẵng 2025 tổ chức tại TP Đà Nẵng ngày 02/10.

Áp lực từ nhiều phía

Thông tin từ ông Lê Hoàng Tài, xuất khẩu tháng 8 năm 2025 cho thấy bức tranh thương mại của Việt Nam đang có những điểm sáng nhất định, song cũng đặt ra nhiều thách thức cần được nhìn nhận nghiêm túc. Theo đó, tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 8 ước đạt 42,23 tỷ USD, lũy kế 8 tháng đạt gần 305 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2024.

img_7425.jpg
Hội nghị kết nối giao thương, xúc tiến xuất khẩu – Đà Nẵng 2025 tổ chức tại TP Đà Nẵng ngày 02/10.

“Đây là mức tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định, thể hiện nỗ lực rất lớn của cộng đồng doanh nghiệp cũng như hiệu quả bước đầu từ các chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ”, ông Tài nói.

Cũng theo vụ này, về các nhóm hàng chủ lực có nông, thủy sản đạt 28,54 tỷ USD, tăng 12,7% so với cùng kỳ cho thấy lợi thế xuất khẩu nông sản Việt Nam vẫn được khai thác tốt, đặc biệt ở các thị trường truyền thống. Tuy nhiên, gạo giảm gần 17,5%, chè giảm hơn 10% và rau quả giảm 2,2%, phản ánh sự phân hóa rõ rệt giữa các mặt hàng.

Đồng thời, nhóm công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo, với mức tăng trưởng hai con số ở nhiều mặt hàng như điện thoại, linh kiện; máy vi tính; dệt may; da giày. Trong khi đó, nhóm nhiên liệu, khoáng sản có sự sụt giảm mạnh, kim ngạch chỉ đạt hơn 1,7 tỷ USD, giảm tới 39% so với cùng kỳ.

img_6566-2.jpg
Ông Lê Hoàng Tài – Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) thông tin hoạt động xuất khẩu đang đối diện với những thách thức không nhỏ, đặc biệt trong giai đoạn cuối năm.

Theo đánh giá của ông Tài, hoạt động xuất khẩu trong 8 tháng qua đã duy trì đà tăng trưởng khá, thặng dư thương mại tiếp tục được củng cố, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, để duy trì và bứt phá trong những tháng cuối năm 2025, xuất khẩu cũng đang đối diện với những thách thức không nhỏ, có thể khái quát trên hai bình diện chính về yếu tố bên ngoài và yếu tố nội tại.

Các vấn đề tác động từ bên ngoài bao gồm cả tình hình địa chính trị và quân sự trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, các xung đột này không chỉ làm gián đoạn và kéo dài chuỗi cung ứng nguyên, nhiên liệu và hàng hóa mà còn đẩy chi phí logistics, vận tải biển, bảo hiểm hàng hải tăng vọt. Việc này khiến thời gian giao hàng kéo dài, giá thành sản phẩm xuất khẩu đội lên, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Thêm vào đó, bất ổn địa chính trị còn gây tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư, làm biến động giá dầu, giá nguyên liệu đầu vào và tỷ giá, qua đó gia tăng rủi ro cho hoạt động sản xuất – kinh doanh. Trong bối cảnh này, xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt với sức ép kép: vừa chịu chi phí tăng, vừa khó duy trì tính ổn định của đơn hàng, đặt ra yêu cầu cấp thiết về đa dạng hóa thị trường, phương thức vận tải và nâng cao khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp.

Chưa kể đến là việc cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn ngày càng gay gắt, không chỉ dừng lại ở thương mại hàng hóa và dịch vụ mà đã mở rộng sang công nghệ, tài chính, năng lượng, an ninh chuỗi cung ứng và cả tiêu chuẩn phát triển bền vững. Qua đó tạo ra một môi trường kinh doanh toàn cầu đầy bất định và khó lường. Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản hay Ấn Độ đều triển khai các chính sách bảo hộ, ưu đãi công nghiệp, kiểm soát xuất khẩu công nghệ lõi, cũng như áp đặt những rào cản kỹ thuật, môi trường và lao động khắt khe để vừa bảo vệ lợi ích quốc gia, vừa định hình lại trật tự thương mại quốc tế,...

Đối với tếu tố nội tại, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam vẫn thiên về gia công, lắp ráp. Tỷ trọng hàng hóa có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ và sáng tạo trong xuất khẩu còn khá khiêm tốn. Điều này khiến biên lợi nhuận thấp, dễ bị tổn thương khi có biến động từ bên ngoài, và phần lớn giá trị gia tăng của chuỗi sản phẩm vẫn nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam”, ông Tài nhận định.

Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp nhiều khó khăn về tài chính và công nghệ, kết hợp với đó là năng lực quản trị chất lượng và tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế còn hạn chế — doanh nghiệp khó tiếp cận và chứng nhận các yêu cầu về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn môi trường, vốn đang trở thành điều kiện “giá vé” để vào các thị trường khó tính — khiến nhiều doanh nghiệp bị loại ngay từ vòng sơ tuyển nhà cung cấp. Đồng thời, việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới chưa tương xứng với tiềm năng,...

Cơ hội nào cho doanh nghiệp Đà Nẵng?

Ông Hồ Quang Bửu – Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cho biết sau khi sáp nhập với tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng đã trở thành đô thị có quy mô lớn hàng đầu cả nước, sở hữu hệ thống hạ tầng chiến lược gồm 2 sân bay, 2 cảng biển loại I, cửa khẩu quốc tế Nam Giang và mạng lưới giao thông kết nối Bắc - Nam và hành lang kinh tế Đông - Tây. Theo vị này, đây là nền tảng quan trọng để Đà Nẵng không chỉ giữ vai trò trung tâm kinh tế miền Trung mà còn vươn tầm trở thành điểm trung chuyển hàng hóa và dịch vụ của khu vực.

img_7415.jpg
Ông Hồ Quang Bửu – Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cho biết hàng hóa địa phương đã có mặt tại hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhiều sản phẩm chủ lực như dệt may, thủy sản, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, cơ khí.

“Đặc biệt, việc triển khai Khu thương mại tự do gần 1.900 ha với 7 khu chức năng hiện đại, kết nối trực tiếp cảng Liên Chiểu, sân bay quốc tế, khu công nghệ cao và Trung tâm tài chính quốc tế đã mở ra không gian phát triển mới, hình thành hệ sinh thái thương mại - công nghiệp - dịch vụ năng động, hội nhập sâu rộng. Đây sẽ là cú hích quan trọng giúp thành phố bứt phá trong hợp tác đầu tư, sản xuất và xuất khẩu”, ông Bửu nói.

Theo số liệu thống kê, trong 8 tháng đầu năm 2025, kinh tế - xã hội Đà Nẵng tiếp tục ổn định, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 5,9 tỷ USD, tăng gần 13% so với cùng kỳ. Hàng hóa Đà Nẵng đã có mặt tại hơn 120 quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhiều sản phẩm chủ lực như dệt may, thủy sản, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, cơ khí, điện tử…

“Những kết quả này cho thấy tiềm năng và năng lực ngày càng lớn của doanh nghiệp Đà Nẵng trong hội nhập quốc tế”, ông Bửu nhận định.

Theo bà Lê Thị Thanh Minh – Đại diện Vụ Phát triển thị trường nước ngoài (Bộ Công thương) nhấn mạnh sự chủ động của doanh nghiệp - người trực tiếp sản xuất, xuất khẩu là yếu tố quyết định. Do đó, bà Minh cho rằng doanh nghiệp cần chủ động nghiên cứu, nắm bắt yêu cầu của thị trường mục tiêu, các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm, phát triển bền vững, chú trọng phát triển các thị trường ngách để đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa chuỗi cung ứng,...

Cũng theo vị này, Vụ Phát triển thị trường nước ngoài đang chủ trì thực hiện đề án “Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài đến năm 2030”, thay vì chỉ xuất khẩu qua trung gian, đề án sẽ kết nối, hỗ trợ doanh nghiệp Việt cần đưa hàng trực tiếp vào hệ thống siêu thị, chuỗi bán lẻ, sàn thương mại điện tử toàn cầu. Hàng năm, đề án có tổ chức Chương trình tuần hàng Việt Nam tại các mạng phân phối nước ngoài ở nhiều quốc gia.

“Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể tìm hiểu nếu có nhu cầu giới thiệu, trưng bày sản phẩm của mình tại các Chương trình tuần hàng Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có nhu cầu tìm đầu ra cho sản phẩm xuất khẩu có thể tham khảo đăng ký tham gia sự kiện trong các năm sau. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng lưu ý tận dụng sự hỗ trợ của hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài: cung cấp thông tin, tư vấn thị trường, kết nối đối tác, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế, tìm kiếm cơ hội phát triển, đưa hàng xuất khẩu Việt Nam ra thị trường các nước sở tại”, bà Minh thông tin.

Tuấn Vỹ