Siết cơ chế tạm nhập - tái xuất, chống trung chuyển trá hình
Cơ chế tạm nhập – tái xuất nếu bị lạm dụng để lẩn tránh thuế hay “đổi áo” xuất xứ sẽ khiến doanh nghiệp Việt vướng điều tra phòng vệ thương mại, mất uy tín trên thị trường quốc tế.

Đây là chia sẻ của PGS, TS Đoàn Ngọc Thắng, Trưởng Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng với Diễn đàn Doanh nghiệp
- Ông đánh giá thế nào về những rủi ro từ việc một số doanh nghiệp lạm dụng cơ chế tạm nhập – tái xuất, đặc biệt trong bối cảnh các thị trường lớn ngày càng siết chặt biện pháp chống lẩn tránh thuế và trung chuyển hàng hóa?
Tôi cho rằng, tạm nhập - tái xuất thời gian qua đã bị một số chủ thể lợi dụng. Phổ biến là tình trạng che giấu xuất xứ/“trung chuyển trá hình”. Hàng thép, nhôm, gỗ, dệt may, linh kiện điện tử… nhập về theo chế độ tạm nhập - tái xuất chỉ thực hiện những thao tác tối thiểu như đóng gói, dán nhãn rồi tái xuất với khai báo “xuất xứ Việt Nam” hoặc “xuất xứ không xác định”.
Bên cạnh đó, có doanh nghiệp lợi dụng kho ngoại quan, biên mậu để kéo dài lưu kho, thay đổi chứng từ, chuyển cửa khẩu nhiều lần, thậm chí dùng pháp nhân “vỏ” và hóa đơn vòng vo để lẩn tránh thuế hoặc hợp thức hóa dòng tiền.
Trong bối cảnh các thị trường lớn, trong đó có Mỹ, đang siết chặt chống lẩn tránh thuế và chống trung chuyển, mọi hành vi “núp bóng” tạm nhập - tái xuất sẽ khiến doanh nghiệp Việt đối diện nhiều rủi ro.
Trước hết là rủi ro pháp lý và thuế quan, như bị điều tra chống lẩn tránh dẫn đến áp thuế phòng vệ thương mại cao, thu hồi ưu đãi thuế theo FTA do không đáp ứng quy tắc xuất xứ. Trường hợp nghi ngờ “hàng trung chuyển”, cơ quan nhập khẩu có thể áp biện pháp tạm thời hoặc truy thu hồi tố.
Cùng với đó là nguy cơ vướng các cơ chế cấm nhập/cưỡng chế liên quan lao động cưỡng bức/đạo luật chuyên ngành; hàng bị chặn theo Lệnh hủy bỏ Withhold Release Order, kéo theo chi phí lưu kho, phạt chậm giao.
Tiếp theo là rủi ro chuỗi cung ứng và tài chính, với kiểm tra hậu kiểm tăng mạnh, hàng hóa bị soi chiếu 100%, dẫn đến chậm giao hàng, đứt gãy hợp đồng, tăng yêu cầu chứng từ thanh toán từ ngân hàng.
Cuối cùng là rủi ro thương hiệu và thị phần dài hạn. Một vụ việc điển hình có thể khiến cả ngành hàng Việt bị “gắn mác rủi ro”, làm giảm khả năng thắng thầu, mất đơn hàng OEM/ODM, thậm chí bị loại khỏi “danh sách nhà cung cấp chấp nhận được” của tập đoàn toàn cầu. Đồng thời chi phí tuân thủ leo thang, bào mòn lợi nhuận của những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc.
- Dự thảo nghị định thay thế Nghị định 69/2018/NĐ-CP (Dự thảo) có nhiều điểm mới nhằm bịt lỗ hổng, tăng truy xuất nguồn gốc và quản lý rủi ro, bảo vệ số đông doanh nghiệp tuân thủ. Ông nhìn nhận sao về những nội dung này?
Dưới góc độ quản lý rủi ro chuỗi cung ứng và bảo vệ uy tín xuất xứ “Made in Vietnam”, tôi đồng tình với tinh thần siết lại cơ chế tạm nhập - tái xuất trong Dự thảo (rút ngắn thời hạn, giới hạn tuyến – cửa khẩu, tăng chuẩn chứng từ/kho ngoại quan, hậu kiểm).
Những biện pháp này sẽ giúp giảm lẩn tránh xuất xứ và trung chuyển trá hình, khi rút ngắn thời gian lưu kho và bắt buộc đi qua cửa khẩu quốc tế/chính, thu hẹp “khoảng mờ” về hành trình hàng hóa, hạn chế tình trạng chuyển cửa khẩu lòng vòng để thay đổi chứng từ.
Đồng thời, việc áp dụng truy xuất theo lô, e-seal, VASSCM hay pre-arrival processing sẽ nâng tín nhiệm đối tác nhập khẩu, giảm xác suất bị điều tra chống lẩn tránh và cải thiện tỷ lệ thông quan luồng xanh ở các thị trường khó tính.
Ngoài ra, các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm túc cũng được hưởng môi trường cạnh tranh công bằng, khi không còn bị “chìm” bởi chi phí tuân thủ cao hơn nhóm lợi dụng tạm nhập - tái xuất; thị trường logistics và kho ngoại quan cũng trở nên minh bạch hơn, giảm rủi ro AML/KYC trong thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên, để “siết mà không nghẽn”, cần lưu ý một số thách thức. Việc thu hẹp cửa khẩu có thể gây dồn ứ tại một số điểm, tăng thời gian thông quan 0,5– 1,5 ngày ở cao điểm. Chi phí logistics biên mậu cũng có thể tăng, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ phụ thuộc thương mại biên giới. Một số mô hình hợp pháp như re-export hàng y tế, linh kiện cần quay vòng nhanh cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng nếu không có cơ chế “hàng đặc thù” linh hoạt.
- Để bảo đảm các quy định mới được thực thi hiệu quả, theo ông, cần ưu tiên giải pháp gì trong giám sát và phối hợp giữa các cơ quan quản lý?
Để Dự thảo thực sự đi vào đời sống và tránh trở thành “luật trên giấy”, tôi cho rằng cần ưu tiên một số giải pháp trọng tâm.
Thứ nhất, tăng cường giám sát dựa trên dữ liệu và công nghệ số, với hệ thống dữ liệu liên thông giữa Hải quan, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Công an và Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt trong quản lý kho ngoại quan, luồng tiền và chứng từ thanh toán.
Việc ứng dụng e-seal gắn GPS, camera AI tại cửa khẩu, hệ thống quản lý tập trung như VASSCM hay blockchain truy xuất nguồn gốc sẽ giúp theo dõi hành trình hàng hóa từ nhập đến tái xuất, đồng thời giám sát rủi ro động và cảnh báo kịp thời các lô hàng bất thường.
Thứ hai, cần phân tầng rủi ro và quản lý theo hồ sơ doanh nghiệp. Cụ thể, ưu tiên thủ tục nhanh cho doanh nghiệp tuân thủ, giám sát chặt những mặt hàng nhạy cảm, rút ngắn thời hạn tạm nhập - tái xuất và áp dụng cơ chế bảo lãnh để đảm bảo tái xuất đúng hạn.
Thứ ba, phối hợp liên ngành và phân định rõ trách nhiệm là yếu tố then chốt. Bộ Công Thương chủ trì chính sách, Cục Hải quan tổ chức thực thi, Công an kinh tế và Quản lý thị trường xử lý gian lận thương mại, Ngân hàng Nhà nước giám sát dòng tiền; đồng thời nên có cơ chế “một đầu mối” để tránh chồng chéo và đùn đẩy trách nhiệm.
Thứ tư, cần tăng cường hợp tác quốc tế và minh bạch thông tin, như trao đổi dữ liệu trước khi hàng đến với hải quan các nước nhập khẩu lớn, ký MOU về truy xuất nguồn gốc và phòng chống lẩn tránh thuế, công khai danh sách doanh nghiệp vi phạm để răn đe, đồng thời bảo vệ doanh nghiệp tuân thủ.
Cuối cùng, hỗ trợ doanh nghiệp và nâng cao năng lực thực thi là cần thiết, thông qua tập huấn quy định mới, đầu tư hạ tầng cửa khẩu và thiết lập cơ chế phản hồi nhanh để nâng cao năng lực thực thi.
Trân trọng cảm ơn ông!