Nghiên cứu - Trao đổi

Hoàn thiện pháp lý thúc đẩy thương mại hóa tài sản trí tuệ

Bài: Gia Nguyễn - Ảnh: Quốc Tuấn 07/10/2025 04:30

Để thương mại hóa tài sản trí tuệ thực sự trở thành động lực phát triển, không ít ý kiến cho rằng, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề, trong đó có việc hoàn thiện hành lang pháp lý.

Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được xác định là động lực then chốt theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, và sở hữu trí tuệ được cho là một trong những trụ cột quan trọng để bảo vệ và khai thác giá trị sáng tạo, thế nhưng việc thương mại hóa tài sản trí tuệ ở Việt Nam vẫn còn hạn chế.

thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue-6.10.1.jpg
Sở hữu trí tuệ được cho là một trong những trụ cột quan trọng để bảo vệ và khai thác giá trị sáng tạo - Ảnh minh họa

Thực tế cho thấy, Việt Nam hiện đứng thứ 37 toàn cầu về chỉ số đầu ra đổi mới sáng tạo, nhưng chỉ xếp hạng 112 về thu nhập từ sở hữu trí tuệ khi tỷ lệ thương mại hóa sáng chế chỉ khoảng 0,1%, trong khi trung bình thế giới đạt 5% và các nước phát triển khoảng 10%.

Từ thực tế đã nêu, để thương mại hóa tài sản trí tuệ thực sự trở thành động lực phát triển, không ít ý kiến cho rằng, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề. Trong đó, khung pháp lý phải bắt kịp xu thế toàn cầu, tạo hành lang pháp lý rõ ràng và ổn định cho các chủ thể. Đồng thời, cần tháo gỡ những điểm nghẽn về định giá, tín dụng, thuế và các chính sách ưu đãi tài chính...

Theo Luật sư Trương Anh Tú - Chủ tịch TAT Law Firm, nguyên nhân chính của các vướng mắc là thiếu chuẩn định giá, thiếu tổ chức chuyên nghiệp và khó đo lường dòng tiền tương lai từ tài sản trí tuệ.

thuong-mai-hoa-tai-san-tri-tue-6.10.2.jpg
Tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đề xuất, coi quyền sở hữu trí tuệ như một loại tài sản để giao dịch trên thị trường - Ảnh minh họa

Vì vậy, ông đề xuất sửa đổi đồng bộ nhiều luật. Cụ thể, Bộ luật Dân sự cần thừa nhận quyền sở hữu trí tuệ là tài sản; hướng dẫn chi tiết cơ chế giao dịch bảo đảm, đăng ký và xử lý; bổ sung quy định công chứng, đăng ký IP (Quyền Sở hữu Trí tuệ) như bất động sản. Luật Sở hữu trí tuệ nên có chương riêng về "Tài chính hóa tài sản trí tuệ"; Bộ Khoa học và Công nghệ lập danh mục IP được tài chính hóa, ban hành chuẩn định giá, khung hợp đồng mẫu.

Luật Doanh nghiệp cần hướng dẫn ghi nhận IP là tài sản góp vốn, cơ chế xử lý biến động giá trị IP trong góp vốn, IPO (Phát hành Cổ phiếu lần đầu), M&A (Sáp nhập và Mua lại). Luật Kế toán cho phép ghi nhận tài sản trí tuệ tự phát triển nếu có hồ sơ xác lập, chứng thư định giá và tạo dòng tiền; quy trình khấu hao cho phần mềm, thuật toán. Luật Các tổ chức tín dụng cần hoàn thiện hướng dẫn định giá, đăng ký, xử lý IP bảo đảm và cơ chế quản trị rủi ro nội bộ.

Trong khi đó, Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư, Luật Đấu giá cần thừa nhận IP là tài sản chứng khoán hóa, yêu cầu công bố thông tin và thuyết minh giá trị IP trong hồ sơ phát hành, IPO, chuyển nhượng dự án.

“Chính phủ lập sàn giao dịch tài sản trí tuệ (IP Exchange) theo mô hình sàn chứng khoán, cho phép niêm yết, đấu giá, chuyển nhượng, cấp phép sử dụng IP minh bạch, kết nối doanh nghiệp, nhà đầu tư, ngân hàng và tổ chức định giá”, Luật sư Trương Anh Tú đề xuất.

Liên quan vấn đề này, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng cho hay, thực tế góp vốn bằng tài sản vô hình hiện có rất ít, chủ yếu xuất hiện ở khối doanh nghiệp lớn hoặc có vốn đầu tư nước ngoài.

“Khó khăn đầu tiên là định giá phức tạp, nhất là đối với bí mật kinh doanh và nhiều dạng tài sản vô hình khác. Để góp vốn, theo quy định, các bên có thể thỏa thuận, nhưng dễ phát sinh rủi ro nếu định giá cao, còn nếu các bên sử dụng dịch vụ định giá chuyên nghiệp thì lại có rất ít đơn vị cung cấp và chi phí cao.

Khó khăn thứ hai là thủ tục, góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ cùng lúc chịu sự điều chỉnh của nhiều luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ và các quy định về định giá; doanh nghiệp mất nhiều thời gian, chi phí để đăng ký xác lập quyền, chuyển giao trong khi quy định thời hạn hoàn tất góp vốn chỉ 90 ngày.

Một vướng mắc nữa là vòng đời và giá trị tài sản biến động nhanh theo công nghệ và thị trường. Khi hết thời hạn bảo hộ hoặc giá trị suy giảm sau khi góp vốn, quyền lợi các bên xử lý thế nào, cơ cấu sở hữu điều chỉnh ra sao, tranh chấp với tổ chức tín dụng được giải quyết theo căn cứ nào…”, ông Tuấn chia sẻ.

Và trước những bất cập này, ông Tuấn đề nghị, cần có giải pháp liên thông và đơn giản hóa toàn bộ quy trình góp vốn, đăng ký và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, thuế. Đồng thời kỳ vọng, Nhà nước xây dựng thiết chế định giá có uy tín, hoạt động theo chuẩn mực quốc tế với chi phí phù hợp, đồng thời hình thành cơ sở dữ liệu công khai về công nghệ, giao dịch công nghệ.

Được biết, tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ trình thẩm tra sơ bộ tại phiên họp thứ 49 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa qua, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đề xuất, coi quyền sở hữu trí tuệ như một loại tài sản để giao dịch trên thị trường.

Theo đó, các quyền sở hữu trí tuệ chưa được ghi nhận trong sổ kế toán sẽ do chủ sở hữu tự định giá, lập thành danh mục tài sản để phục vụ quản trị, góp vốn hoặc giao dịch thương mại.

Chính phủ sẽ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giá trị những quyền đã được giao dịch hợp pháp và ban hành phương pháp định giá chuẩn. Đồng thời, thí điểm một loạt chính sách như cho phép thế chấp vay vốn, huy động vốn qua thị trường chứng khoán và phát triển các sản phẩm bảo hiểm, công cụ tài chính dựa trên tài sản trí tuệ.

Mục tiêu của chính sách nhằm phát triển thị trường sở hữu trí tuệ, tạo động lực thương mại hóa các kết quả nghiên cứu, qua đó nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm quốc gia và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Bài: Gia Nguyễn - Ảnh: Quốc Tuấn