Các giải pháp bền vững tăng chi tiêu xã hội: Phân bổ trọng điểm
Tăng chi tiêu xã hội với 2 trụ ổn định, bền vững, đòi hỏi giải pháp kích thích hiệu quả, không chỉ hướng về mục tiêu tăng trưởng trong cuộc đua nước rút của 3 tháng cuối năm mà còn ở các năm sau.

9 tháng 2025, theo báo cáo của Bộ Tài chính, đầu tư công đã giải ngân được 440.400 tỷ đồng, đạt hơn 50% kế hoạch Chính phủ giao. Mặc dù con số đã giải ngân là rất tích cực so với cùng kỳ năm trước, song kế hoạch gần 50% dồn về 3 tháng cuối năm sẽ đầy thách thức. Chi tiêu công được xem là chìa khóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong giai đoạn tới, nhưng trước mắt cũng đã và đang “đảm trách” cả phần đóng góp cho tăng trưởng GDP theo năm, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng cao của GDP 2025.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế không thể chỉ “trông dồn” trụ chính chi tiêu công. Đặc biệt, từ 2026, việc duy trì mở rộng chính sách tài khóa, tăng đầu tư chi tiêu nhằm tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng từ 9-10%, thì bên cạnh kỷ luật chi tiêu, chúng ta phải có một nguồn lực lớn cho đầu tư phát triển.
Việt Nam dù còn dư địa để gia tăng nợ công (tỷ lệ nợ công/GDP giảm xuống dưới 34%) song vẫn phải cần kích thích thu nhập nội địa để gia tăng nguồn thu, thay thế một phần hoặc toàn bộ cho các nguồn thu kém bền vững hay làm giảm động lực sản xuất kinh doanh tiêu dùng hiện tại. Theo đó, phân bổ nguồn lực đúng, trúng ưu tiên trọng điểm, bám sát trong mục tiêu tổng thể chung của quốc gia theo từng giai đoạn đến 2030, tầm nhìn đến 2050 cũng cần hướng đến kích hoạt được bộ phận có thể đóng góp cho tăng thu này, không để dàn trải nguồn lực không hiệu quả.
Lấy ví dụ, hiện Việt Nam đang kích thích đầu tư vốn cho nhà ở xã hội để hỗ trợ an cư, an sinh xã hội. Chiến lược theo đề án là đúng và nhân văn, song quy hoạch theo từng địa phương để phát triển dự án, đi kèm giải ngân tín dụng ngân sách và tín dụng thương mại, tránh lãng phí quỹ đất, lãng phí cơ hội, lãng phí kỳ vọng... thực tế vẫn chưa rõ ràng và có nhiều điểm chưa phù hợp. Đơn cử tại TP HCM, nếu tính khu vực lõi, khả năng phát triển nhà ở xã hội sẽ không mang lại giá trị lan tỏa đầu tư cho GRDP, cũng không giải quyết vấn đề nhà ở đi kèm công ăn việc làm cho người lao động do người lao động sẽ dịch chuyển địa bàn sinh sống theo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thậm chí là dịch chuyển về các địa phương. Đó là lý do khiến địa phương đầu tàu kinh tế và nhân lực của cả nước này vẫn luôn trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu nhà ở xã hội.
Bình ổn giá và cơ chế thị trường
Tăng chi tiêu xã hội trên thực tế, còn đến từ cấu phần quan trọng là chi tiêu tiêu dùng của người dân. Cấu phần này phụ thuộc thu nhập khả dụng, khả năng tiếp cận tín dụng, chính sách thuế lẫn sự kích thích từ chi tiêu Chính phủ.
Hiện theo thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 9 tháng năm 2025 tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, theo giá thực tế tương đương 7,2-7,4% (thấp hơn xa so với tăng trưởng kỳ vọng 12%). Các chỉ tiêu cho thấy chi tiêu cá nhân hộ gia đình đang cải thiện. Song thực tế, cấu phần này đang đóng góp tỷ trọng thấp trong GDP (dưới 45%), một phần do thu nhập khả dụng chưa phục hồi sau Covid-10, một phần do niềm tin tiêu dùng và áp lực chi phí do tăng giá hàng hóa thiết yếu.
Lại đơn cử, chỉ riêng giá điện, từ 2023- nay, giá điện đã tăng tổng cộng 5 lần, tổng mức tăng xấp xỉ 20%. Giá điện tăng không chỉ làm tăng tỷ lệ chi tiêu bắt buộc, còn tác động giám tiếp tăng chi phí sản xuất dẫn đến tăng chi phí ngầm giá hàng hóa bán ra. Khi thu nhập thực tế không tương ứng, tỷ lệ cắt giảm chi tiêu sẽ tăng. Về lâu dài, năng lực tích lũy tiết kiệm của người dân sẽ cạn kiệt.
Ở một số liệu khác, chúng ta thấy cung tiền ra nền kinh tế rất lớn (lũy kế 17,41 triệu tỷ đồng), vòng quay tiền chậm, tốc độ tăng trưởng tín dụng của bất động sản tăng cao hơn nhiều ngành; trong khi đó CPI vẫn đang ở mức thấp. Áp lực lạm phát cục bộ là thấy rõ và khó khăn sẽ diễn ra với nhóm có giá hàng hóa tăng nhanh hơn nhóm còn lại, tập trung vào nhu cầu tiêu dùng của nhóm thu nhập trung bình và thấp, dễ tổn thương.
Để giảm cấu phần tác động trực tiếp đến chi tiêu “ăn” vào sức mua của nhóm thu nhập trung bình, thấp, cản trở mục tiêu tăng trưởng tiêu dùng, qua đó cải thiện sức mua và giảm gây áp lực lên lạm phát. Mặt khác, thêm điều kiện phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, đặt trong bối cảnh có sự cần thiết “độc quyền” của một số mặt hàng như điện, nước... thì phân bổ tài chính cần duy trì gói hỗ trợ bình ổn giá phù hợp, đến đúng với lợi ích của người tiêu dùng, thay cho phân bổ nguồn lực bình ổn vào một số mặt hàng đã được kinh doanh tư nhân (ví dụ bình ổn giá trứng).
Ở đây nhấn mạnh rõ: Khi Nhà nước vẫn duy trì các dịch vụ độc quyền (bao gồm giai đoạn chuyển tiếp cho đến khi tư nhân hóa hoàn toàn, nếu có), thì cần có cơ chế bù lỗ cho dân với giá điện, nước, học phí, phí giao thông... Song song đó, theo đúng Nghị quyết 68, bên cạnh các chính sách hỗ trợ tư nhân, rất cần không gian để khu vực tư nhân tự đổi mới sáng tạo, thay cho sức ỳ và thiếu cạnh tranh tranh theo cơ chế thị trường.
Tương tự và mở rộng, ngay cả các gói tín dụng ưu đãi, cần sự tái rà soát, phân bổ cơ chế ưu đãi với các đối tượng cần được thụ hưởng để phát huy các mũi nhọn chiến lược Nhà nước đặt trọng tâm và có ý nghĩa đối với thúc đẩy kinh tế, phát triển cộng đồng xã hội (dự án hạ tầng trọng điểm, đổi mới sáng tạo, kinh tế xanh, các lĩnh vực ưu tiên)... Đối với các khoản vay thương mại cho các lĩnh vực phi sản xuất, cần được kiểm soát, nắn dòng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ tránh “bơm tiền” gây áp lực lên lạm phát. Trong định hướng hành động kích thích chi tiêu công, tư, tăng đầu tư tư nhân và nâng tổng cầu của hôm nay, tránh mối nguy trở thành áp lực lạm phát, bong bóng giá và tài sản của ngày mai.