Doanh nghiệp

Vật liệu tái chế nhưng thành phẩm rất khó tái chế

Quân Bảo 19/10/2025 01:07

Các thành phẩm đa phần là đa vật liệu, việc phân tách vô cùng phức tạp khiến ngành tái chế loay hoay nhiều năm nay.

Ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với một bài toán tuần hoàn lớn. Mặc dù đạt sản lượng gần 6 tỷ sản phẩm may mặc mỗi năm và kim ngạch xuất khẩu 44 tỷ đô la Mỹ (vượt xa nhập khẩu hơn 20 tỷ đô la), sự phức tạp của cấu trúc vật liệu đang trở thành rào cản lớn nhất, kìm hãm khả năng tăng trưởng xanh và tuần hoàn trong nước.

Bà Quyên Nguyễn – Giám đốc CEL – cho biết, CEL đã tiến hành nghiên cứu dựa trên việc quét hơn 1.600 sản phẩm dệt may khác nhau (bao gồm quần áo, phụ kiện và giày dép) tại hơn 11 điểm trên chuỗi cung ứng, kết quả cho thấy một rào cản rất lớn trong việc tái chế. Nguyên nhân nằm ở cấu trúc vật liệu thành phẩm thời trang.

s.jpg
Bà Quyên Nguyễn – Giám đốc CEL

Phần lớn sản phẩm dệt may Việt Nam phụ thuộc khá nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu và vật liệu có nguồn gốc hóa thạch. Thống kê cho thấy sợi tổng hợp đang chiếm áp đảo, với 72% sản phẩm được quét có chứa poly. Đáng chú ý, 56% là dòng sợi pha trộn giữa nhiều chất khác nhau (ví dụ: cotton polyester). Tính phức tạp này gia tăng theo chuỗi cung ứng: từ 47% đa thành phần ở khâu nhập khẩu, nó tăng lên tới 76% ở khâu tồn kho trên thị trường. Chỉ có khoảng 13-14% sản phẩm được làm từ một loại vật liệu duy nhất (mono fiber).

Bà Quyên nhấn mạnh rằng chính sợi pha đã khiến quá trình tái chế vô cùng khó khăn. Khi sợi bị pha, nó kế thừa tính chất không phân hủy của sợi tổng hợp. Thêm vào đó, các phụ kiện cứng như khóa kéo, nút móc lại là thủ phạm chính, chiếm gần 96% thành phần nhựa ở trong quần áo, đặc biệt là giày dép và đồ thời trang, làm phức tạp hóa quá trình phân tách và tái chế.

Sự phức tạp của vật liệu đã dẫn đến một khoảng cách tuần hoàn lớn, chưa đến 7% dòng chảy vật liệu dệt may được tái chế hoặc tái sử dụng. Mặc dù Việt Nam là một cường quốc xuất khẩu, hệ sinh thái tái chế dệt may nội địa vẫn còn ở những bước sơ khai. Toàn quốc chỉ có khoảng 40 cơ sở và công ty thực hiện việc tái chế liên quan tới dệt may, trong đó phân nửa là các đơn vị upcycle (tái chế để làm thành sản phẩm khác) cơ bản.

Các đơn vị tái chế đang gặp khó khăn về mặt kỹ thuật và chi phí. Họ thường phải sử dụng phương pháp đốt để nhận biết chất liệu vì công nghệ nhận biết vật liệu tiên tiến như quang phổ cực hồng ngoại còn quá đắt và chưa được ứng dụng rộng rãi. Việc này dẫn đến việc nhiều đơn vị thu hồi bỏ đi các chất liệu mà họ không thể nhận biết chính xác.

Để duy trì sức cạnh tranh trên thị trường toàn cầu, đặc biệt là thị trường châu Âu, doanh nghiệp Việt Nam cần phải xem xét lại chiến lược sản xuất.

Bà Quyên khuyến nghị doanh nghiệp cần bắt đầu từ khâu thiết kế. Việc áp dụng nguyên tắc thiết kế sinh thái (ecodesign), ưu tiên thiết kế có thể dễ dàng tháo rời hoặc sử dụng các thành phần lắp ghép theo mô-đun, sẽ giúp giảm thiểu công tác sơ chế lại ở khâu cuối và hỗ trợ các đơn vị tái chế thu hồi vật liệu dễ dàng hơn.

Việc xây dựng chỉ số tuần hoàn theo dòng sản phẩm không chỉ là một nghĩa vụ, mà còn là một tấm vé điều kiện để doanh nghiệp đi được xa hơn đến những thị trường khó tính và rộng lớn hơn. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng nên xem xét hợp tác xuyên chuỗi với các đơn vị tái chế để học hỏi và mở rộng chuỗi cung ứng xanh của mình. Mặc dù hành trình tuần hoàn không bao giờ là dễ dàng, nhưng đây là một sự cần thiết để doanh nghiệp có thể duy trì sức cạnh tranh và tạo ra những giá trị lớn lao hơn.

Cuối cùng, Việt Nam cần có sự phối hợp giữa chính quyền và doanh nghiệp để xây dựng cơ sở hạ tầng thu gom và phân loại tốt hơn, hỗ trợ các đơn vị tái chế xử lý vòng cuối của sản phẩm.

Trao đổi thêm với phóng viên Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, bà Quyên cho biết, các chuyên gia quốc tế đang đánh giá rất cao về tính sáng tạo trong tái chế của người dân Việt Nam. Họ ví Việt Nam giống như một “phòng thí nghiệm”, một “trung tâm nghiên cứu khổng lồ” về tái chế tại châu Á.

Bà Quyên cho rằng Việt Nam cần chủ động nghiên cứu và phát triển các giải pháp tái chế của riêng mình, vì mỗi nước, mỗi môi trường khác nhau đòi hỏi một giải pháp khác nhau. Giải pháp được phát triển ở Việt Nam mới phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Chỉ khi giải quyết được sự phức tạp của vật liệu, ngành dệt may Việt Nam mới có thể thoát khỏi mô hình gia công và giành được vị thế là một trung tâm sản xuất xanh có giá trị cao trên toàn cầu.

Quân Bảo