Doanh nghiệp

“Thách thức kép” xuất khẩu của ngành dệt may

Quân Bảo 23/10/2025 01:51

Sản phẩm của Việt Nam vừa phải đáp ứng tiêu chuẩn xuất xứ rất khắt khe vừa phải “xanh” mới cạnh tranh được trên trường quốc tế.

Ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước ngã rẽ quan trọng khi phải đồng thời chinh phục hai "thẻ thông hành" khó khăn trên thị trường quốc tế: các quy tắc xuất xứ (ROO) nghiêm ngặt trong các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) thế hệ mới và làn sóng chuyển đổi xanh toàn cầu. Việc tận dụng ưu đãi thuế quan thông qua các FTA này là động lực quan trọng cho sự phát triển bền vững của xuất khẩu dệt may, theo bà Trịnh Thị Thu Hiền – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương.

1(6).jpg
Bà Trịnh Thị Thu Hiền – Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương.

Bà Hiền đã dẫn chứng cụ thể về lợi thế cạnh tranh tuyệt đối này: một lô hàng bít tất dệt kim xuất khẩu sang EU có thể chịu mức thuế 12% nếu không có chứng nhận xuất xứ, nhưng nếu đáp ứng quy định EVFTA, thuế suất sẽ giảm từ 12% xuống 0%. Tương tự, xuất khẩu mặt hàng này sang Canada (CPTPP) có thể được giảm thuế từ 18% xuống còn 0%.

Rào cản kỹ thuật “siêu khó”

Để được hưởng ưu đãi thuế quan này, hàng hóa bắt buộc phải đáp ứng quy tắc xuất xứ. Bà Nguyễn Thị Trọng Nghĩa - Phó trưởng phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực thành phố Hồ Chí Minh, Cục Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương - nhận định rằng trong các FTA thì CPTPP có yêu cầu về sản phẩm dệt may khó nhất, tiếp theo là EVFTA.

Bà Hiền đã phân tích rõ sự khác biệt trong yêu cầu xuất xứ đối với dệt may đi các thị trường: nếu hàng hóa xuất khẩu sang Singapore (trong khuôn khổ ASEAN), chỉ cần thực hiện công đoạn cắt may tại Việt Nam. Tuy nhiên, nếu xuất khẩu đi EU, quy tắc là "từ vải trở đi", nghĩa là công đoạn dệt vải và cắt may phải được thực hiện tại các nước thành viên hiệp định. Khó khăn nhất là khi xuất khẩu đi Canada hay Mexico (CPTPP), quy định là "ba công đoạn" hay "từ sợi trở đi", yêu cầu toàn bộ công đoạn se sợi, dệt vải và cắt may phải thực hiện trên lãnh thổ các nước thành viên hiệp định. Bà Nghĩa thừa nhận rằng để làm được chuỗi này đối với đa số doanh nghiệp Việt Nam là khó, vì "đa phần là phải nhập khẩu sợi, nhập khẩu vải".

Cụ thể hơn, bà Nghĩa giải thích về EVFTA đối với sản phẩm dệt thoi. Theo đó, doanh nghiệp được phép nhập khẩu vải thô, vải mộc và phải xử lý vải, thực hiện ít nhất hai công đoạn chuẩn bị để hoàn thiện sản phẩm (như giặt, tẩy trắng, định hình) tại Việt Nam, với điều kiện trị giá của vải chưa in không vượt quá 47,5% giá xuất xưởng. Bà Nghĩa lưu ý rằng công đoạn xử lý vải này đòi hỏi doanh nghiệp phải có giấy phép môi trường đầy đủ và "không phải là dễ".

Tận dụng cơ chế ngoại lệ

Trước các tiêu chí kỹ thuật khó khăn này, bà Nghĩa đã chỉ ra một số cơ chế ngoại lệ quan trọng mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng.

23.jpg
Bà Nguyễn Thị Trọng Nghĩa - Phó trưởng phòng quản lý xuất nhập khẩu khu vực thành phố Hồ Chí Minh

Trong khuôn khổ CPTPP, bà Nghĩa cho biết hiện chỉ còn danh mục 179 mặt hàng thuộc "nguồn cung thiếu hụt" được áp dụng vĩnh viễn. Nếu doanh nghiệp nhập khẩu vải từ nước không phải thành viên CPTPP mà loại vải đó thuộc danh mục thiếu hụt này, sản phẩm quần áo cuối cùng vẫn được xem xét cấp CO mẫu CPTPP mà không cần chứng minh xuất xứ vải. Bên cạnh đó, có ba dòng sản phẩm không yêu cầu quy tắc xuất xứ sợi/vải là vali túi xách (Chương 42), quần áo trẻ em từ sợi tổng hợp (Chương 61, 62), và áo ngực phụ nữ.

Đối với EVFTA, bà Nghĩa giới thiệu điều khoản "cộng gộp mở rộng" cho phép Việt Nam nhập khẩu vải từ Hàn Quốc. Bà giải thích, do Việt Nam và EU đều có FTA với Hàn Quốc, vải nhập khẩu từ Hàn Quốc có thể được xem là vải có xuất xứ Việt Nam để sản xuất quần áo xuất khẩu đi EU, theo nguyên tắc "bạn của bạn là bạn". Tuy nhiên, vải này phải đáp ứng quy định trong khuôn khổ EKFTA (FTA giữa EU và Hàn Quốc) và doanh nghiệp phải thể hiện dòng chữ quy định về áp dụng điều khoản cộng gộp mở rộng này trên CO.

Biến áp lực “xanh” thành động lực

Cùng với quy tắc xuất xứ, chuyển đổi xanh đã trở thành một xu thế toàn cầu và là "thẻ xanh" để hàng hóa có thể đứng vững trên thị trường thế giới.

Về phía chính sách, bà Hiền nhắc đến những cơ chế mới của Liên minh Châu Âu như chỉ thị thẩm định tính bền vững doanh nghiệp (CS3D), Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) và hộ chiếu sản phẩm. Bà Hiền nhìn nhận rằng những quy định này, ở giai đoạn đầu, có thể là rào cản và áp lực đối với doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đó là "áp lực để tạo động lực" cho sự phát triển, giúp doanh nghiệp không thu mình lại mà sẵn sàng thích ứng với các tiêu chí quốc tế.

Bà Nghĩa phân tích thêm rằng để tạo ra sản phẩm xanh, cần phải bắt nguồn từ nguyên liệu xanh và công nghệ xanh. Đối với tiêu chí xuất xứ, bà Nghĩa khẳng định về mặt kỹ thuật, chuyển đổi xanh không có tác động hay ảnh hưởng đến tiêu chí xuất xứ của sản phẩm dệt may để đề nghị cấp CO mẫu CPTPP và EVFTA. Tuy nhiên, việc sử dụng các sản phẩm có xuất xứ thuần túy (như cây bông, cây dứa trồng được trên lãnh thổ Việt Nam) có thể tạo ra chuỗi từ nguyên liệu xanh ra sản phẩm xanh. Bà Nghĩa kết luận rằng việc đáp ứng đồng thời cả quy định về tiêu chí xuất xứ trong EVFTA/CPTPP và tiêu chuẩn chuyển đổi xanh sẽ góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam có được vị trí trên bản đồ thương mại thế giới.

Quân Bảo