Doanh nghiệp

5 thách thức của ngành dệt may Việt Nam

Đình Đại 26/10/2025 02:55

Mặc dù đạt kết quả tăng trưởng tích cực trong 9 tháng đầu năm, nhưng ngành dệt may Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức.

Theo số liệu từ Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2025 đạt gần 34,7 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng giá trị xuất khẩu, 27,8 tỷ USD là giá trị xuất khẩu quần áo may mặc; 6,9 tỷ USD là xuất khẩu vải, phụ liệu, vải kỹ thuật. Hàng dệt may của Việt Nam hiện đã xuất sang 138 quốc gia trên thế giới.

detmay.jpg
Ngành dệt may Việt Nam vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức - Ảnh: Đình Đại.

Tuy nhiên, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất, chiếm hơn 45% giá trị xuất khẩu dệt may, trong khi Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu lớn nhất. Ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước những cơ hội chuyển đổi lớn nhưng cũng đầy thách thức trong bối cảnh thương mại toàn cầu liên tục biến động và nguy cơ sụt giảm sức mua từ thị trường Mỹ.

Theo đánh giá từ chuyên gia phân tích của ACBS, cơ hội của ngành dệt may Việt Nam đến từ sự đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và đổi mới công nghệ, gia tăng năng suất lao động. Việt Nam hiện đang giữ vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu dệt may với 44 tỷ USD, sau Trung Quốc với 301 tỷ USD trong năm 2024.

Mặc dù Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu chính và Trung Quốc là thị trường nhập khẩu nguyên vật liệu chính, nhưng ngành dệt may Việt Nam đang nỗ lực hướng tới sự đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam đã có mặt tại 138 thị trường, nhờ lợi thế từ 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết và dự kiến sẽ tăng lên 22 hiệp định vào năm 2027.

Trong đó, dệt may Việt Nam đang nổi lên mạnh mẽ ở thị trường Trung Đông và châu Phi - trước đây ít được doanh nghiệp quan tâm. Hoặc thị trường Nga - đã mang lại doanh thu 1 tỷ USD cho ngành dệt may năm 2024 và 700 triệu USD chỉ trong 7 tháng đầu năm 2025.

ACBS cho rằng, mặc dù chi phí tiền lương của công nhân dệt may Việt Nam cao hơn 40-45% so với chi phí tiền lương tại Indonesia, Myanmar, nhưng hiệu suất lao động tại Việt Nam cũng cao hơn tương ứng. Từ đó, hiệu quả vẫn được đảm bảo và duy trì được sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp FDI.

“Ngày càng nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang tích cực đưa ứng dụng về công nghệ và chuyển đổi xanh hóa vào trong chuỗi sản xuất của mình, chỉ đứng sau Trung Quốc trong khu vực về mức độ hiện đại hóa dây chuyền. Từ đó, gia tăng năng lực cạnh tranh khi bán vào các thịtrường cao cấp, đòi hỏi các tiêu chuẩn ESG nghiêm ngặt hơn”, chuyên gia của ACBS đánh giá.

Mặc dù vậy, ngành dệt may Việt Nam vẫn đối mặt với 5 thách thức, cụ thể: Thứ nhất, chưa làm chủ chuỗi cung ứng. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn chưa làm chủ được chuỗi cung ứng về nguyên vật liệu. Theo đó, kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu 9 tháng năm 2025 vẫn ở mức cao, lên đến 16 tỷ USD, trong đó riêng vải chiếm 11 tỷ USD, cho thấy Việt Nam vẫn phụ thuộc lớn vào nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, đặc biệt là thị trường Trung Quốc.

Thứ hai, nguy cơ gia tăng chi phí tiền lương sau sáp nhập tỉnh. Mức lương tối thiểu trước đây của Việt Nam được chia thành 4 vùng, tương ứng như sau: Vùng I: 4.960.000 đồng/tháng, (+43,7% so với vùng IV); Vùng II là 4.410.000 đồng/tháng (+27,8% so với vùng IV); Vùng III là 3.860.000 đồng/tháng (+11,8% so với vùng IV); Vùng IV là 3.450.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, sau khi sáp nhập tỉnh, nhiều khu vực trước đây thuộc vùng III, IV đã trở thành vùng I, II. Vì vậy, mức lương tối thiểu có thể sẽ được điều chỉnh tăng lên sau sáp nhập tỉnh, gây áp lực lên chi phí tiền lương của các doanh nghiệp dệt may.

Thứ ba, phải duy trì tuân thủ các bộ tiêu chí đánh giá của nhiều tổ chức tạo gánh nặng lên nguồn lực. Bộ tiêu chí đánh giá của nhiều tổ chức khác nhau, mỗi thị trường lại khác nhau, gây khó khăn cho các doanh nghiệp.

Thứ tư, áp lực từ nhu cầu vốn đầu tư vào hạ tầng công nghệ hiện đại hóa. Nhu cầu vốn để đầu tư vào các dây chuyền tự động hóa và công nghệ xanh hóa ngành may mặc là rất lớn. Các doanh nghiệp dệt may trong nước cần được tạo điều kiện để tiếp cận các gói tín dụng ưu đãi này nhằm cải tiến công nghệ, nâng cao hiệu quả và gia tăng sức cạnh tranh trong tương lai.

Thứ năm, một yếu tố khác là chi phí logistics ở Việt Nam hiện nay cũng đang rất cao. Ngay cả trong nước, chi phí vận tải, kho bãi cũng tăng mạnh. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng tái cấu trúc chuỗi cung ứng, đầu tư công nghệ, tránh tình trạng logistics manh mún như hiện nay. Chi phí cao làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, dù đang có nhiều đơn hàng. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành sản phẩm và có thể doanh nghiệp phải chấp nhận lợi nhuận thấp hơn trong ngắn hạn.

“Biến thách thức thành cơ hội bằng nội lực ngành dệt may vẫn còn dư địa để có thể tiếp tục phát triển, hoàn thiện chuỗi cung ứng toàn ngành, nâng cao sản xuất tự động hóa và xanh hóa, chuyển đổi cơ cấu, hướng đến thương hiệu riêng, sản phẩm công nghệ cao, và mở rộng sang các thị trường phi truyền thống, tạo cơ hội bền vững dài hạn”, ACBS kết luận.

Đình Đại