Để đạt Net Zero 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm 8–10 tỷ USD/năm cho NLTT
Để đạt được mục tiêu Net Zero 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm 8-10 tỷ USD/năm cho NLTT, hạ tầng và công nghệ lưu trữ - một con số thể hiện thách thức tài chính rất lớn.

Tại hội thảo Chuyển đổi năng lượng xanh nhìn từ Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, ông Trần Hoài Trang - Phó Cục trưởng Cục Điện lực cho biết, Bộ Công Thương đang hoàn thiện dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2025) nhằm hiện thực hóa Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, với mục tiêu tạo hành lang pháp lý đột phá để đảm bảo an ninh năng lượng và đáp ứng nhu cầu điện tăng mạnh trong giai đoạn 2026–2030.
Về phạm vi điều chỉnh, Nghị quyết quy định về một số cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026 - 2030, bao gồm: Quy hoạch phát triển điện lực, phương án phát triển mạng lưới cấp điện trong quy hoạch tỉnh; đầu tư xây dựng dự án điện lực; phát triển điện gió ngoài khơi; mua bán điện trực tiếp.
Về phát triển điện gió ngoài khơi, dự thảo đưa ra một số nội dung gồm: Làm rõ việc xử lý chi phí khảo sát, lập đề xuất chủ trương đầu tư khi cấp có thẩm quyền giao doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thực hiện.
“Quy định thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư của UBND cấp tỉnh trên cơ sở vị trí điểm gom công suất. Đây là nội dung được định hướng xuyên suốt về việc phân cấp, phân quyền của Đảng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam với tinh thần: “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” và các cơ quan Trung ương chỉ thực hiện xây dựng cơ chế, chính sách và thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện ở địa phương”, ông Trang cho hay.
Đồng thời có cơ chế giao nhiệm vụ cho một số doanh nghiệp lớn nhà nước, tư nhân có uy tín, thương hiệu, có thực lực để thực hiện nhiệm vụ phát triển điện gió ngoài khơi quy mô lớn gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Tuy nhiên, để được giao thực hiện nhiệm vụ, nhà đầu tư phải thực hiện nghĩa vụ bảo đảm đầu tư thực hiện dự án cao hơn quy định hiện hành nhằm chứng minh năng lực tài chính và sự nỗ lực của doanh nghiệp nhằm sớm đưa các dự án điện gió ngoài khơi vào vận hành đúng theo tiến độ của Quy hoạch điện VIII.
Theo ông Trang, nếu Nghị quyết này được ban hành sẽ tạo một hành lang pháp lý thông thoáng, thúc đẩy phát triển các dự án nguồn điện, lưới điện nhanh chóng, đáp ứng được nhu cầu phụ tải của hệ thống điện trong bối cảnh đất nước đang vươn mình với mục tiêu tăng trưởng mỗi năm là hai con số giai đoạn 2026 – 2030.

Chia sẻ tại Hội thảo, PGS.TS Đặng Trần Thọ, Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: Trong hơn ba thập kỷ qua, ngành năng lượng Việt Nam đã đóng vai trò trụ cột trong phát triển kinh tế – xã hội. Giai đoạn 2011–2023, nhu cầu năng lượng tại Việt Nam tăng trung bình 6,5 %/năm, thuộc nhóm cao nhất khu vực châu Á. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này phản ánh vai trò của năng lượng như “huyết mạch” của nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng đặt ra áp lực lớn lên hệ thống hạ tầng, nguồn cung và an ninh năng lượng quốc gia.
Tuy nhiên cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam vẫn thiên lệch: than chiếm khoảng 49,7 %, dầu mỏ và các sản phẩm dầu chiếm 24,7 %, khí tự nhiên 6,4 %, thủy điện 6,8 %, năng lượng tái tạo (NLTT) khoảng 3,3 %, sinh khối và chất thải 9,1 %. Cụ thể, cơ cấu huy động điện 6 tháng/2024: than ~56,9%, thủy điện 18,9%, khí 8,6%, năng lượng tái tạo (gió+mặt trời) 13,7%, nhập khẩu 1,7% (công bố của EVN). Mức độ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch cao khiến Việt Nam chịu rủi ro kép: vừa đối mặt với biến động giá năng lượng toàn cầu, vừa chịu áp lực giảm phát thải để thực hiện cam kết Net Zero 2050 tại COP26.
Cũng theo ông Thọ, Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng NLTT lớn nhất Đông Nam Á. Các nghiên cứu của World Bank (2023) cho thấy Việt Nam có thể khai thác hơn 500 GW điện gió ngoài khơi, 8,6 kWh/m²/ngày bức xạ mặt trời trung bình, và hàng triệu tấn sinh khối, rác thải đô thị có thể quy đổi tương đương 1–2 GW điện mỗi năm. Các vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Nam Bộ đang trở thành “trục năng lượng mới” của quốc gia nếu được đầu tư đồng bộ vào truyền tải và lưu trữ.
Tính đến cuối năm 2024, tổng công suất nguồn điện đạt khoảng 82 GW, trong đó NLTT chiếm 24 GW (điện mặt trời 17 GW, gió 6 GW). Dù tỷ trọng NLTT tăng nhanh so với giai đoạn trước 2020, cơ cấu nguồn vẫn mất cân đối, hạ tầng truyền tải yếu, thiếu hệ thống lưu trữ khiến nhiều dự án phải cắt giảm 30–40 % công suất.
Theo Vietnam Energy Outlook 2024, để đạt được mục tiêu Net Zero 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm 8–10 tỷ USD/năm cho NLTT, hạ tầng và công nghệ lưu trữ – một con số thể hiện thách thức tài chính rất lớn.
Trong bối cảnh này, Nghị quyết 70 đặt ra bốn nhóm mục tiêu: xây dựng hệ thống năng lượng hiện đại, bền vững, thông minh, đồng bộ; tăng tỉ trọng năng lượng tái tạo lên khoảng 30% tổng cung năng lượng vào 2030, hướng tới 40 - 50% vào 2045; giảm phát thải khí nhà kính 10% vào 2030 và 20% vào 2045, tiến tới trung hòa carbon vào 2050; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong năng lượng.
Tuy nhiên, để hiện thực mục tiêu trên, Việt Nam đang đối mặt với ba thách thức lớn: Nhu cầu điện tăng nhanh trong khi nguồn cung ổn định còn hạn chế, gây áp lực lớn lên đầu tư mới; phụ thuộc mạnh vào than và khí, dẫn tới rủi ro nhập khẩu, phát thải cao, thiếu tính bền vững; năng lực lưu trữ và truyền tải yếu, khiến việc tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo bị gián đoạn, lãng phí công suất.
Theo ông Thọ, để đạt được các mục tiêu chiến lược về an ninh năng lượng, giảm phát thải, và tăng trưởng xanh, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính liên ngành, gắn kết giữa Nhà nước – Doanh nghiệp – Viện trường – Xã hội.
Cần ban hành Chiến lược quốc gia về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo Năng lượng xanh giai đoạn 2026–2040; Thành lập Quỹ Đổi mới sáng tạo Năng lượng Xanh Việt Nam, tạo cơ chế đồng tài trợ công – tư.
Đồng thời, tăng đầu tư R&D về năng lượng lên tối thiểu 1% GDP vào năm 2030; Đưa tiêu chí “tài chính – công nghệ – phát thải” vào xét duyệt dự án về năng lượng; Thiết lập cơ chế phối hợp: Nhà nước - Doanh nghiệp - Đại học - Nhà đầu tư quốc tế, tạo mạng lưới đồng hành trong chuyển đổi năng lượng xanh.
“Chuyển đổi năng lượng xanh không chỉ là bài toán của vốn đầu tư hay công nghệ, mà là bài toán của tư duy phát triển – nơi khoa học, tài chính và doanh nghiệp cùng chia sẻ trách nhiệm vì một Việt Nam xanh, tự cường và hội nhập, là hành trình khẳng định tầm vóc và trí tuệ Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển xanh, tự chủ và thịnh vượng”, ông Thọ nhấn mạnh.