Kinh tế thế giới

ASEAN cần thúc đẩy mạnh mẽ "Made in Đông Nam Á"

Cẩm Anh 03/11/2025 03:34

ASEAN cần thúc đẩy "Made in Đông Nam Á" để tạo ra một thị trường nội khối chung, tăng cường sức cạnh tranh, quảng bá thương hiệu khu vực và nâng cao vai trò trung tâm trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ảnh màn hình 2025-11-02 lúc 17.38.20
Indonesia, quốc gia nắm giữ 42% trữ lượng niken của thế giới, đang biến lợi thế này thành ngành công nghiệp pin dự kiến ​​sẽ mở rộng từ 10 GWh trong năm nay lên 140 GWh vào năm 2030. ẢNH: AFP

Chi phí lao động thấp vẫn thu hút các nhà sản xuất đến Đông Nam Á, nhưng khu vực này đang nhanh chóng phát triển thành một mạng lưới các trung tâm công nghiệp chuyên biệt, khoáng sản ở Indonesia và Philippines, điện tử trung gian ở Malaysia và Việt Nam, lắp ráp xe điện ở Thái Lan và tài chính ở Singapore.

Nhận định trong báo cáo Tái cấu trúc chuỗi cung ứng châu Á” công bố hồi tháng 9, công ty tư vấn Roland Berger cho biết, người chiến thắng trong cuộc đua tái cấu trúc chuỗi cung ứng khu vực sẽ là những ai biết “dàn dựng” mạng lưới này một cách khéo léo bằng cách thiết kế chiến lược mua hàng kép, tích hợp yếu tố bền vững, và tận dụng các tuyến tái xuất của Singapore như “bộ giảm sốc thuế quan”.

“Chỉ khi chúng ta thay đổi tư duy từ cạnh tranh sang hợp tác thì nhãn hiệu ‘Sản xuất tại Đông Nam Á’ (Made in South-east Asia) mới không chỉ là một nhãn dán, mà trở thành một lợi thế thực sự,” ông John Low, đồng Giám đốc điều hành khu vực Đông Nam Á của Roland Berger, nhận định.

Ông nói thêm rằng, nguồn tài nguyên khoáng sản chiến lược dồi dào cùng với thị trường tiêu dùng đang bùng nổ có thể trở thành “quân bài mặc cả” mạnh nhất của khu vực trong bối cảnh thế giới đang khát cả nguồn lực lẫn tăng trưởng.

Các dự án chiến lược như đảo Carey và tuyến đường sắt bờ Đông (East Coast Rail Link) có thể giúp cải thiện hạ tầng logistics và thu hút đầu tư mới, trong khi Khu kinh tế đặc biệt Johor–Singapore là hình mẫu tiềm năng cho hợp tác xuyên biên giới.

“Singapore có năng lực nghiên cứu và phát triển (R&D) hàng đầu thế giới, nhưng lại thiếu đất đai và tài nguyên; còn Johor có thể cung cấp năng lực sản xuất trung gian và việc làm tay nghề cao,” ông Low nói.

Thách thức hiện nay của Singapore là biến lợi thế đó thành đòn bẩy chiến lược thực sự, nhất là khi chuỗi cung ứng toàn cầu đang được tái định hình.

Theo báo cáo, sự hội nhập khu vực và xu hướng dịch chuyển công nghiệp đang tạo nên một hệ sinh thái sản xuất nhiều tầng ở châu Á, với Trung Quốc dẫn đầu về công nghệ, Nam và Đông Nam Á đảm nhiệm khâu sản xuất, còn Nhật Bản và Hàn Quốc cung cấp tri thức chuyên môn.

Cấu trúc này nếu được phối hợp hiệu quả, có thể giúp khu vực thoát khỏi vai trò “công xưởng của thế giới” và trở thành một mạng lưới hợp tác công nghiệp xuyên biên giới.

Tuy nhiên, điểm yếu lớn nhất của khu vực Đông Nam Á theo ông Low không nằm ở năng lực, mà ở sự phân mảnh. Ông cho biết, nhiều nước Đông Nam Á đang cung cấp cùng một loại dịch vụ bán dẫn. Câu hỏi đặt ra là: Làm sao chúng ta hợp lực để trở thành một cường quốc khu vực, thay vì những mắt xích đơn lẻ?

Ảnh màn hình 2025-11-02 lúc 17.38.51
Kết nối liền mạch giữa các quốc gia Đông Nam Á là một bước ngoặt. ẢNH: DERRYN WONG, BT

Báo cáo ủng hộ quan điểm này khi cho rằng việc thiếu hợp tác khu vực hiệu quả là một trong ba thách thức hệ thống của châu Á. Khi chưa có một quốc gia dẫn dắt rõ ràng, tiêu chuẩn và chiến lược chuỗi cung ứng vẫn rời rạc, khiến tiến trình hội nhập bị chậm lại.

Giải pháp của ông Low rất rõ ràng: “Hợp tác nhiều hơn, cạnh tranh thông minh hơn. Chúng ta có thị trường 750 triệu dân. Nếu có thể tìm nguồn cung trong ASEAN thay vì bên ngoài, tôi sẽ ưu tiên các đối tác trong khu vực.”

Ông đề xuất thống nhất tiêu chuẩn logistics và hải quan để thương mại diễn ra trơn tru và rẻ nhất có thể, cùng các chính sách tài khóa nhằm bảo đảm độ ổn định của điện năng và giao thông thay vì chỉ áp dụng ưu đãi thuế tràn lan.

Ở khu vực tư nhân, sự hợp tác cũng có thể đạt được. Ví dụ điển hình là Cụm Tự động hóa Penang (PAC) được thành lập vào năm 2017 bởi ba công ty công nghệ cao của bang là Vitrox, Pentamaster và Walta Engineering. Mục tiêu của PAC là cung cấp dịch vụ gia công chính xác và linh kiện kim loại cho các tập đoàn đa quốc gia đang hoạt động tại Penang và Kulim (Kedah).

Theo ông Low, mỗi công ty có thế mạnh riêng trong chuỗi bán dẫn, cùng tạo ra giải pháp hoàn chỉnh và có tính cạnh tranh toàn cầu. Nguồn tài nguyên thiên nhiên của Đông Nam Á giờ đây trở thành trung tâm của sức mạnh thương lượng mới.

Báo cáo nêu rằng Indonesia, nơi nắm giữ 42% trữ lượng niken toàn cầu, đang tận dụng lợi thế này để xây dựng ngành sản xuất pin với công suất dự kiến tăng từ 10 GWh năm nay lên 140 GWh vào năm 2030. Philippines xuất khẩu hơn 370.000 tấn niken mỗi năm và đang tăng trưởng 5%/năm trong năng lượng sạch.

Còn Malaysia hiện xử lý khoảng 1/3 lượng xuất khẩu dịch vụ lắp ráp và kiểm định bán dẫn thuê ngoài toàn cầu, đồng thời đầu tư 11 tỷ USD vào năng lực sản xuất wafer mới. Ông Low cho rằng những lợi thế này nên được dùng làm đòn bẩy để đàm phán chuyển giao công nghệ và hợp tác R&D. Theo ông, đó là cách giúp khu vực khắc phục điểm yếu trong sản xuất trung và cao cấp – leo nhanh hơn trên nấc thang đổi mới sáng tạo thay vì mãi mắc kẹt ở khâu lắp ráp lợi nhuận thấp.

Để hợp tác khu vực hiệu quả, hàng hóa và dữ liệu phải lưu thông tự do. Ông Low cho rằng logistics và hạ tầng sẽ là “yếu tố thay đổi cuộc chơi”, nhấn mạnh vai trò của tuyến Đường sắt bờ Đông Malaysia và các hành lang liên quốc gia nối Singapore – Thái Lan – Trung Quốc như trụ cột cho giai đoạn hội nhập tiếp theo.

Báo cáo cũng ghi nhận xu hướng tương tự, hội nhập khu vực dưới khuôn khổ RCEP đang thúc đẩy luồng lưu chuyển linh kiện, khi các bộ phận có thể di chuyển từ Batam (Indonesia) sang TP HCM (Việt Nam) rồi đến Penang (Malaysia) trước khi làm thủ tục xuất khẩu cuối cùng.

Các chuyến hàng liên quan tới Indonesia tăng 5,6% mỗi năm kể từ 2019, vượt 106 tỷ USD, tạo nên một biểu đồ sống động về công xưởng châu Á đang tự đan kết chặt chẽ hơn.

Tuy vậy, nút thắt cổ chai vẫn tồn tại: xếp hạng hiệu quả logistics của Indonesia còn thấp, thủ tục hải quan tại cảng Thái Lan chậm, và chi phí vận chuyển nội địa ở Việt Nam vẫn cao.

Dù hơn 70% doanh nghiệp logistics đã ứng dụng nền tảng AI, song tình trạng thiếu kỹ sư lành nghề và chi phí năng lượng cao vẫn hạn chế mức độ tự động hóa. Ông Low kết luận: “Bất kỳ điều gì giúp hàng hóa và con người di chuyển nhanh hơn, rẻ hơn, ổn định hơn đều có lợi cho tất cả.”

Một điểm đáng chú ý là ông Low cảnh báo rằng Đông Nam Á chưa thể tách khỏi công nghệ Mỹ. "Trong ngắn hạn, khoảng 5 đến 10 năm tới là không thể. Mọi thứ chúng ta sử dụng đều gắn với hệ thống của Mỹ. Nhưng trong vòng 20 năm, hoặc sớm hơn, điều đó có thể sẽ khác,” ông nói.

Báo cáo Roland Berger cũng nhấn mạnh sự trỗi dậy của Trung Quốc trong chuỗi giá trị, thông qua các sáng kiến như “Made in China 2025” và mô hình “tuần hoàn kép”.

Khi Trung Quốc nội địa hóa dần sản xuất công nghệ cao, Đông Nam Á sẽ đóng vai trò đối tác bổ sung, cung cấp năng lực sản xuất song hành thay vì cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc.

Ông Low cũng nói thêm rằng Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ vẫn là trụ cột của tầng công nghệ cao, còn Đông Nam Á có thể cung cấp những gì họ thiếu, như tài nguyên, quy mô sản xuất và khả năng tiếp cận thị trường, đồng thời học hỏi lại qua các chương trình hợp tác đổi mới.

Ông Low cũng khuyến nghị khu vực đẩy mạnh đồng đổi mới sáng tạo dựa trên nhu cầu bản địa. "Những sản phẩm thiết kế cho Nhật hay Mỹ có thể không phù hợp với thị trường ASEAN; nhưng nếu cùng phát triển, chúng ta có thể rút ngắn khoảng cách đổi mới và đưa doanh nghiệp địa phương vào chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Low nhấn mạnh.

Tóm lại, tương lai chuỗi cung ứng châu Á phụ thuộc vào khả năng hợp tác thực chất, khai thác tài nguyên thông minh và đầu tư vào hạ tầng kết nối.

Như lời ông Low: “Nếu chúng ta biết phối hợp, ‘Made in South-east Asia’ sẽ không chỉ là một nhãn mác mà là một lợi thế cạnh tranh của cả khu vực.”

Cẩm Anh