Kinh tế thế giới

Ngành năng lượng châu Á cần "bộ đệm" để ứng phó khủng hoảng

Cẩm Anh 04/11/2025 11:02

Nguyên nhân gây gián đoạn nguồn cung năng lượng không còn đến từ địa chất, mà đến từ địa chính trị. Do đó, ngành năng lượng châu Á cần giải pháp ứng phó.

Ảnh màn hình 2025-11-03 lúc 15.39.59
Tàu Lưu trữ và Tái hóa khí nổi xuất hiện trong lễ khánh thành trạm khí đốt nổi thứ hai của Deutsche Energy Terminal tại cảng Wilhelmshaven, Đức. Ảnh: Reuters

Giá dầu thế giới đã liên tục giảm trong năm nay, nhưng rủi ro về nguồn cung lại trở thành yếu tố chủ chốt chi phối thị trường. Ngay cả trong kịch bản các cuộc chiến ở Gaza và Ukraine được giải quyết ngay ngày mai, thì những yếu tố khiến năng lượng bị “vũ khí hóa” như thuế quan, lệnh trừng phạt, kiểm soát xuất khẩu, điểm nghẽn hàng hải và các tuyến vận chuyển vòng xa bắt buộc, vẫn sẽ tiếp tục tồn tại.

Khi các đại biểu tập trung tại Triển lãm & Hội nghị Dầu khí Quốc tế Abu Dhabi (Adipec), đây sẽ là thực tế được quan tâm hàng đầu.

Theo bà Vandana Hari là người sáng lập Vanda Insights, công ty cung cấp thông tin phân tích thị trường năng lượng toàn cầu có trụ sở tại Singapore, nguyên nhân gây gián đoạn nguồn cung năng lượng không còn đến từ địa chất, mà đến từ địa chính trị.

Các lệnh trừng phạt của phương Tây áp đặt lên những quốc gia sản xuất lớn đã làm thay đổi luồng thương mại toàn cầu, khiến dầu mỏ phải đi qua một mạng lưới trung gian phức tạp.

Căng thẳng tại các điểm nghẽn chiến lược như eo biển Hormuz, Bab el-Mandeb hay Biển Đỏ đã làm kéo dài hành trình vận chuyển và khiến phí bảo hiểm tăng cao. Bên cạnh đó, thuế quan trả đũa và các hạn chế xuất khẩu đối với những thiết bị quan trọng trong cả chuỗi giá trị nhiên liệu hóa thạch và năng lượng sạch đang làm đội chi phí và kéo dài tiến độ của nhiều dự án.

Đây chính là môi trường hoạt động mà các quốc gia châu Á, vốn phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng phải đối mặt.

Bà Hari cho biết: "Khi sự phụ thuộc vào dầu nhập khẩu ngày càng lớn, khả năng chống chịu của khu vực phải được xây dựng trên ba nền tảng: bộ đệm dự phòng, tính linh hoạt và tính minh bạch. Kho dự trữ chiến lược là lớp đệm rõ ràng nhất".

Trung Quốc đã tiến rất nhanh trong việc mở rộng dự trữ, trong khi Ấn Độ, nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai khu vực vẫn còn chậm hơn. Một mạng lưới dự trữ khu vực phân tán, bổ sung cho kho quốc gia, sẽ tạo thêm lớp bảo hiểm quan trọng.

Dù khó thực hiện, song một liên minh tự nguyện, khởi đầu có thể từ các nước ASEAN hoàn toàn có thể thúc đẩy nỗ lực này.

Song song đó, việc thiết lập một cơ chế phối hợp kho dự trữ nhẹ, tự nguyện và dựa trên dữ liệu cũng rất cần thiết. Nếu các quốc gia tiêu thụ có thể đồng bộ hóa việc rút dầu dự trữ và chia sẻ thông tin tồn kho, họ sẽ hạn chế được các đợt mua hoảng loạn và kiềm chế mức phí rủi ro thường tăng mạnh khi có biến động chính trị hoặc lệnh trừng phạt.

chau a
Các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo ngành năng lượng châu Á cần đưa khái niệm “sức bền của hệ thống năng lượng” trở thành trọng tâm tại Adipec

Tính linh hoạt trong nguồn cung cũng quan trọng không kém. Bà Hari nhận định, người mua cần hướng tới các hợp đồng năng lượng linh hoạt, thay vì chỉ chăm chăm giảm giá.

Các nhà máy lọc dầu cần mở rộng khả năng xử lý nhiều loại dầu thô hơn; người mua cần thêm hợp đồng có thể thay đổi điểm đến, đồng thời đa dạng hóa nguồn cung, không chỉ dựa vào các nhà cung cấp lớn mà cả những nước sản xuất tầm trung, hay các nguồn dầu từ lưu vực Đại Tây Dương có thể chuyển hướng sang châu Á khi tuyến Trung Đông bị tắc nghẽn.

Các kế hoạch nâng cấp nhà máy lọc dầu nhằm mở rộng “khẩu vị” dầu thô như bổ sung công nghệ xử lý hydro, nâng cấp cặn hay khử lưu huỳnh nên được ưu tiên trong chiến lược đầu tư dài hạn.

Trong bối cảnh mới, vận chuyển và bảo hiểm trở thành một phần của an ninh năng lượng. Sự gia tăng của đội tàu “bóng tối” đã làm tăng rủi ro pháp lý, kỹ thuật và môi trường đối với những người mua chính thống.

Do đó, bà Hari nhấn mạnh, việc xây dựng năng lực tàu chở dầu tập thể và minh bạch thông qua các công ty dầu quốc gia, các liên minh hoặc đơn vị thương mại chung cùng với hợp đồng bảo hiểm được thiết kế để vẫn có hiệu lực trong tình huống bị trừng phạt sẽ giúp giảm đáng kể “phí sợ hãi” trên thị trường.

Về mặt tài chính, các doanh nghiệp châu Á cần thận trọng với rủi ro lan truyền từ lệnh trừng phạt thứ cấp - điều có thể xảy ra nhanh hơn cả tốc độ hàng hóa di chuyển.

Cả khối nhà nước và tư nhân nên áp dụng tiêu chuẩn thẩm định chặt chẽ, đa dạng hóa hệ thống thanh toán và đồng tiền giao dịch, đồng thời chuẩn bị các phương án pháp lý dự phòng trong trường hợp quy định thay đổi đột ngột.

Việc thanh toán các lô hàng đủ điều kiện bằng nhân dân tệ, rupee hoặc rúp, nếu hợp pháp, sẽ giúp giảm rủi ro phụ thuộc vào một kênh thanh toán duy nhất. Ngoài ra, kỷ luật phòng hộ tài chính cần được duy trì để hạn chế thiệt hại khi giá dầu hoặc phí vận tải tăng vọt chỉ sau một đêm.

Lĩnh vực khí đốt sẽ là “mặt trận” tiếp theo và còn dễ tổn thương hơn. Nhu cầu LNG của châu Á đang tăng mạnh, trong khi nhiều chiến lược giảm phát thải lại phụ thuộc vào việc mở rộng sử dụng loại nhiên liệu sạch hơn dù sản lượng nội địa đang chững lại.

Để bảo đảm nguồn cung, các nước nên xây dựng danh mục nhập khẩu bền vững, với phần lớn khối lượng được cố định trong hợp đồng dài hạn, nhưng vẫn giữ quyền chuyển hướng hàng hóa khi cần, đặt trước khối lượng bổ sung cho mùa cao điểm, và mua bán giao ngay linh hoạt để đối phó với các sự cố bất ngờ như nhà máy điện hạt nhân hoặc than bị ngừng hoạt động.

Hạ tầng năng lượng cần được thiết kế theo hướng linh hoạt và có dự phòng. Các tàu lưu trữ và tái hóa khí nổi (FSRU) có thể được triển khai nhanh hơn nhiều so với các trạm trên bờ, và dù không hoàn hảo, chúng vẫn là bộ giảm chấn hiệu quả.

Bà Vandana Hari chỉ ra, châu Á hiện thiếu kho lưu trữ khí quy mô lớn, vì vậy cần mở rộng dần, kết hợp với năng lực lưu trữ trong đường ống và kho bên thứ ba có quyền truy cập hợp đồng. Đồng thời, phối hợp giữa hệ thống lưới điện và khí đốt rất quan trọng, đảm bảo nguồn nhiên liệu ổn định cho nhà máy điện và quy trình chuyển đổi nhiên liệu sẵn sàng sẽ giúp ngăn khủng hoảng năng lượng trở thành sự cố mất điện lan rộng.

Vận chuyển cũng là yếu tố sống còn đối với LNG. Người mua nên tránh phụ thuộc quá mức vào một tuyến đường hoặc khu vực, và khi có điều kiện, nắm giữ cổ phần nhỏ trong các dự án khai thác thượng nguồn để củng cố an ninh nguồn cung.

Ngoài ra, tăng hiệu quả sử dụng năng lượng là cách tăng sức bền, nâng cấp thiết bị để giảm tiêu thụ, cho phép giá điện tăng nhẹ vào giờ cao điểm để phân tán nhu cầu, đồng thời xử lý các rò rỉ methane thường xuyên nhằm vừa giảm phát thải, vừa thu hồi lượng khí thất thoát với chi phí thấp.

Năng lượng tái tạo cần được mở rộng trong khu vực, không phải để thay thế, mà để bổ trợ cho hệ thống năng lượng tổng thể, và sự phát triển đó phải đi đôi với việc đầu tư mạnh vào mạng lưới truyền tải và phân phối điện.

Các đường dây kết nối khu vực và quốc gia, hệ thống lưu trữ quy mô vừa bằng pin hoặc thủy điện tích năng, cùng giải pháp điều tiết nhu cầu thông minh sẽ hỗ trợ đáng kể, nhưng nền tảng chính vẫn là lưới điện mạnh và ổn định.

Các nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo ngành năng lượng châu Á cần đưa khái niệm “sức bền của hệ thống năng lượng” trở thành trọng tâm tại Adipec. Với khu vực này, sức bền có nghĩa là dự phòng ở nơi cần thiết, ứng dụng công nghệ thông minh ở nơi chi phí thấp nhất, và tăng cường liên kết khu vực cùng hợp đồng linh hoạt để giảm tác động của trừng phạt, thuế quan và điểm nghẽn hàng hải.

Những quốc gia nhập khẩu năng lượng biết đầu tư đúng hướng vào bộ đệm, tính linh hoạt, dữ liệu minh bạch và tuân thủ đáng tin cậy sẽ trả ít hơn cho cùng một đơn vị năng lượng, đồng thời duy trì nguồn sáng khi bản đồ địa chính trị thế giới chuyển sang màu đỏ.

Cẩm Anh