Nghiên cứu - Trao đổi

Hoàn thiện chính sách thuế với tài sản số

Gia Nguyễn thực hiện 09/11/2025 11:30

Sự phát triển nhanh chóng của tài sản số tại Việt Nam vừa mở ra cơ hội lớn, vừa đặt ra thách thức không nhỏ về chính sách, đặc biệt là chính sách thuế phù hợp để điều tiết, phát triển thị trường này.

Kim Ngan
Luật sư Cù Thị Kim Ngân – Công ty Luật TNHH Đại Việt

Đây là chia sẻ của Luật sư Cù Thị Kim Ngân – Công ty Luật TNHH Đại Việt với Diễn đàn Doanh nghiệp.

Một chính sách thuế phù hợp được cho sẽ là động lực lớn giúp thị trường tài sản số Việt Nam phát triển. Bà cho biết quan điểm của mình về vấn đề này?

Việc hoàn thiện chính sách thuế đối với tài sản số là mảnh ghép không thể thiếu trong bức tranh phát triển kinh tế số tại Việt Nam. Nếu thiết kế tốt, chính sách thuế không chỉ là công cụ tăng thu ngân sách mà còn là “bộ lọc” giúp thị trường minh bạch hơn, bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn và khuyến khích đổi mới sáng tạo một cách có trách nhiệm.

Theo Điều 46 và 47 Luật Công nghiệp công nghệ số 2025 có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, tài sản số được xác định là tài sản theo Bộ luật Dân sự, tồn tại dưới dạng dữ liệu số và được tạo lập, lưu trữ, chuyển giao, xác thực thông qua công nghệ số trên môi trường điện tử. Tài sản số được quy định bao gồm: tài sản ảo, tài sản mã hoá, và tài sản số khác. Các loại tài sản này không bao gồm chứng khoán, tiền pháp định dạng số và tài sản tài chính theo quy định pháp luật.

Quy định này đã chính thức luật hóa khái niệm về tài sản số nhằm xác định địa vị pháp lý của tài sản này trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, khái niệm “tài sản số” ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng về phạm vi, đồng thời cũng chưa đề cập cụ thể đến những loại tài sản số điển hình như tiền mã hóa hay NFT…

Từ đó có thể dẫn đến những bất cập trong việc xác định tính hợp pháp của các phương thức thanh toán bằng tài sản số, gây khó khăn cho cơ quan quản lý khi áp dụng chính sách thuế.

Mới đây, Bộ Tài chính cũng đang đề xuất áp dụng mức thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng từng lần giao dịch như đối với chuyển nhượng chứng khoán hiện nay. Liệu đây có phải là giải pháp phù hợp không, thưa bà?

Theo khoản 9 Điều 4 Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP, chính sách thuế đối với các giao dịch, chuyển nhượng, kinh doanh tài sản mã hóa được áp dụng theo các quy định thuế đối với chứng khoán, cho đến khi có chính sách thuế chuyên biệt cho thị trường tài sản mã hóa. Cách tiếp cận này là phù hợp trong giai đoạn thí điểm, bởi giao dịch chứng khoán và tài sản số đều có quy mô lớn, tần suất cao, tốc độ thực hiện nhanh và mức độ rủi ro tương đối tương đồng nhằm lấp khoảng trống pháp lý và tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình xây dựng, ban hành chính sách thuế chuyên biệt...

11.jpg
Ảnh minh hoạ

Việc đưa thu nhập từ giao dịch tài sản số vào phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (thay thế) với mức thuế suất 0,1% trên giá trị chuyển nhượng từng lần giao dịch, tương tự chứng khoán, về mặt quản lý cũng có những ưu điểm nhất định: dễ thu, dễ thực hiện nếu giao dịch tập trung trên các sàn được cấp phép; hạn chế tình trạng thất thu thuế trong bối cảnh quy mô thị trường tài sản số đang tăng nhanh và tiềm năng nguồn thu được đánh giá là khá lớn.

Tuy nhiên, xét trên đặc thù của tài sản số và cấu trúc nhà đầu tư tại Việt Nam, đây chưa phải là giải pháp tối ưu nếu áp dụng cứng nhắc mà không kèm theo các cơ chế điều chỉnh phù hợp.

Thứ nhất, giá tài sản số biến động rất mạnh, trong khi nhà đầu tư – đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân – có xu hướng giao dịch với tần suất cao, “lướt sóng” liên tục. Việc thu thuế trên giá trị giao dịch mà không tính đến lãi – lỗ thực tế có thể dẫn đến “thuế chồng thuế”: nhà đầu tư lỗ vẫn phải nộp thuế, thậm chí lỗ càng nhiều càng giao dịch nhiều thì càng nộp nhiều. Điều này khác với quan điểm đánh thuế thu nhập – tức là đánh vào phần giá trị tăng thêm thực tế.

Thứ hai, đánh thuế thu nhập cá nhân trên từng lần giao dịch cũng đặt ra bài toán khả thi và chi phí quản lý. Hoạt động giao dịch tài sản số rất đa dạng về quy mô, có nhiều giao dịch nhỏ lẻ; nếu không giới hạn phạm vi áp dụng (ví dụ chỉ áp dụng với giao dịch qua sàn trong nước được cấp phép, có báo cáo đầy đủ, hoặc đặt ngưỡng tối thiểu), thì cơ quan thuế sẽ gặp khó khăn trong việc theo dõi, đối chiếu, trong khi nhà đầu tư dễ nảy sinh tâm lý “né” giao dịch chính thức.

Thứ ba, trong bối cảnh phần lớn nhà đầu tư Việt Nam là cá nhân nhỏ lẻ, sức chịu đựng rủi ro còn hạn chế, thuế 0,1% trên từng lần giao dịch – nếu không đi kèm cơ chế bù trừ lãi lỗ, ngưỡng miễn trừ nhất định – có thể làm giảm đáng kể mức độ hấp dẫn của thị trường chính thức, đẩy một phần dòng vốn sang các kênh giao dịch phi chính thức, sàn nước ngoài, nơi cơ quan quản lý rất khó nắm bắt và thu thuế.

Vậy để có một chính sách thuế phù hợp, khả thi, bà có đề xuất, góp ý gì?

Theo tôi, với thuế thu nhập cá nhân, cần áp dụng mức thuế suất khác nhau giữa hoạt động đầu tư ngắn hạn và việc nắm giữ dài hạn, qua đó khuyến khích hành vi đầu tư bền vững, hạn chế đầu cơ ngắn hạn. Đồng thời, nên xem xét quy định ngưỡng miễn thuế đối với các khoản thu nhập nhỏ hoặc phát sinh không thường xuyên, nhằm giảm chi phí quản lý và bảo vệ nhà đầu tư nhỏ lẻ.

Khi hệ thống dữ liệu giao dịch được chuẩn hóa tốt hơn trong giai đoạn sau thí điểm, cơ quan quản lý có thể nghiên cứu áp dụng cơ chế bù trừ lãi – lỗ theo năm hoặc cho phép khấu trừ một phần chi phí giao dịch, phí sàn để phản ánh đúng bản chất thu nhập chịu thuế thực tế của người nộp thuế.

Bên cạnh đó, về cơ chế quản lý và hạ tầng dữ liệu, cùng với việc thực hiện Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP, Việt Nam cần sớm xây dựng một đầu mối chuyên trách về thị trường tài sản mã hóa có chức năng chuẩn hóa dữ liệu, kết nối hệ thống thông tin giữa cơ quan thuế, ngân hàng và các sàn giao dịch. Việc này sẽ giúp nâng cao hiệu quả thu thuế, phòng chống rửa tiền, tài trợ khủng bố và trốn thuế.

Song song, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo kiến thức cho nhà đầu tư và doanh nghiệp về nghĩa vụ thuế khi tham gia thị trường tài sản số, để chính sách thuế khi ban hành có thể được triển khai hiệu quả và đi vào thực tiễn thay vì chỉ tồn tại trên giấy tờ.

Trân trọng cảm ơn bà!

Gia Nguyễn thực hiện