Cú hích từ đầu tư hạ tầng
Đầu tư công đã và đang tiếp tục là động lực dẫn dắt, lan tỏa hiệu ứng đầu tư, đóng góp cho tăng trưởng GDP năm 2025 và mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2026.

Các cú hích chính sách kỳ vọng sẽ thúc đẩy lĩnh vực này tăng hiệu ứng và hệ số ICOR cho nền kinh tế.
Chính sách vào cuộc sống
Kế hoạch giải ngân đầu tư công năm nay vẫn đang chạy nước rút để đạt mục tiêu giải ngân và đóng góp cho tăng trưởng GDP từ 8 - 8,3%. Điều đáng được mong đợi hơn là các dự án lớn đã và đang tiếp tục đi vào “guồng” khởi động cho một giai đoạn thúc đẩy tăng trưởng từ 10%, vào nhóm kinh tế phát triển, thoát bẫy thu nhập trung bình.
Ông Sacha Dray, Chuyên gia kinh tế World Bank Việt Nam cho biết, nâng cao hiệu quả đầu tư công, thúc đẩy thương mại, tăng cường vai trò khu vực tư nhân sẽ là 3 động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Cùng với đó, các chuyên gia cũng cho rằng các dự án đã và đang được đưa vào vận hành ngay trong năm nay. Đến đầu năm tới, các dự án này sẽ đóng góp ngay cho tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, tâm điểm về triển vọng động lực đầu tư công vẫn đang là dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam trị giá 67 tỷ USD. Và nóng không kém là các đường sắt metro, hàng không, cảng, cao tốc. Trong đó, dự án đường sắt cao tốc đi qua 20 tỉnh, thành đã được Chính phủ xác định nguồn vốn theo phương thức hợp tác công tư.
Một số doanh nghiệp thể hiện mong muốn tham gia đầu tư dự án này, như Vinspeed (thuộc Vingroup), Thaco, liên danh Mekolor - Great USA, Công ty Xây dựng Thăng Long Quốc gia,... hay Tập đoàn Hòa Phát dự kiến xây nhà máy thép nhằm cung cấp sản phẩm thép ray cho dự án, VinMetal xây dựng nhà máy cung cấp thép ray và thép kết cấu cầu – cảng – đường sắt... Do đó, theo chuyên gia World Bank, để kích hoạt khu vực tư nhân, cần sớm thống nhất cơ chế phân chia lợi nhuận rõ ràng và xác định đúng nhu cầu của từng dự án. Đưa ra số liệu tính toán về việc chỉ cần tăng 1% vốn đầu tư công vào các dự án cơ sở hạ tầng lớn, tăng trưởng GDP có thể đạt thêm 1–2%, ông Sacha Dray khuyến nghị đây là những con số rất đáng cân nhắc khi huy động vốn.
Nguồn vốn ở đâu?
Với phương thức hợp tác công tư, rõ ràng ngoài nguồn ngân sách Nhà nước theo kế hoạch trung hạn và theo năm sẽ được giải ngân, những cơ chế huy động từ cả Nhà nước lẫn tư nhân cũng cần được thúc đẩy.
Ông Huỳnh Minh Tuấn, nhà sáng lập FIDT chia sẻ, hiện nay, nợ công/GDP của Việt Nam chỉ khoảng 34%. Xét theo cơ cấu, nợ Chính phủ chiếm 31,8% GDP, giảm từ 49,9% GDP vào năm 2020, trong khi nợ được Chính phủ bảo lãnh hạ xuống 2,2% GDP và nợ chính quyền địa phương duy trì ổn định ở mức thấp, khoảng 0,6% GDP. Trần nợ của Việt Nam tới 60%, và Việt Nam đang thuộc nước có tỷ lệ nợ công/GDP thấp nhất khu vực và thế giới. Đây là khoảng dư địa rất lớn để Chính phủ tăng huy động trái phiếu cho các dự án đầu tư trọng điểm lớn. Đối với thị trường bên ngoài khi lãi suất USD đang trong xu hướng giảm, đây cũng là cơ hội rất tốt để huy động quốc tế cho các dự án.
Tương tự với doanh nghiệp tư nhân muốn tham gia các dự án, dĩ nhiên họ phải có vốn đối ứng. Doanh nghiệp có thể tăng huy động quốc tế qua phát hành trái phiếu dự án không bảo lãnh và phát hành trái phiếu doanh nghiệp, hạ tầng, trái phiếu xanh… tùy đặc thù dự án đầu tư. Đặc biệt, doanh nghiệp có thể tiếp cận vốn tín dụng theo chương trình 500 nghìn tỷ đồng mà Chính phủ đang yêu cầu thúc đẩy ngân hàng triển khai danh mục, trên cơ sở các danh mục dự án cũng cần sớm được ban hành.
Liên quan đến gói tín dụng 500 nghìn tỷ đồng có 21 ngân hàng đăng ký tham gia, một số vướng mắc mà các ngân hàng kiến nghị NHNN có cơ chế hỗ trợ liên quan trích lập dự phòng rủi ro; không tính một số khoản cho vay trung và dài hạn thuộc chương trình này vào hạn mức tăng trưởng tín dụng. Đặc biệt với các dự án hạ tầng PPP thường có tổng vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn tới 15 - 20 năm...., theo ông Quản Trọng Thành - Giám đốc Phân tích Chứng khoán Maybank, rất cần được NHNN xem xét về cơ chế hỗ trợ cụ thể. Ví dụ như cơ chế tái cấp vốn cho vay nhằm hỗ trợ cho các ngân hàng đăng ký tham gia có vốn với lãi suất thấp hơn khi giải ngân cho vay.
Tuy nhiên, ông Thành nhấn mạnh việc điều chỉnh các chỉ số tính toán đánh giá khả năng đảm bảo an toàn vốn và năng lực tài chính của các ngân hàng để phục vụ cho các chương trình tín dụng đặc thù, ưu tiên trong hoạt động cho vay đầu tư, thương mại rất cần sự thận trọng, thậm chí có thể nói là không nên, bởi điều đó sẽ làm sai lệch đánh giá về sức khỏe của hệ thống.
Thay vào đó, ông Quản Trọng Thành cho rằng cần kích thích doanh nghiệp tư nhân nhiều hơn thông qua tạo môi trường chính sách để doanh nghiệp tiếp cận, đa dạng nguồn vốn và tăng tốc đầu tư, rút ngắn thời gian hoàn vốn. “Rất nhiều dự án đầu tư hạ tầng đã được các doanh nghiệp rút ngắn thời gian chỉ còn 1 - 2 năm, lại đảm bảo ICOR, minh chứng cho sức mạnh của khu vực tư nhân khi được cởi mở cơ chế tham gia các dự án lớn. Cơ chế tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đưa chính sách vào thực tiễn sẽ thực sự có ý nghĩa hơn trong tận dụng và tăng sức mạnh của cú hích đầu tư hạ tầng đối với tăng trưởng”, ông Thành nhấn mạnh.