80 năm ngành nông nghiệp: Từ "trụ đỡ" đến "nền tảng xanh" của nền kinh tế
Trải qua các thời kỳ, ngành nông nghiệp đã trở thành trụ đỡ của nền kinh tế quốc dân, đưa Việt Nam từ nước thiếu ăn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng khẳng định, 80 năm qua là hành trình vẻ vang và đầy tự hào, bản hùng ca về ý chí, trí tuệ, khát vọng cống hiến của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành nông nghiệp và môi trường, đã góp phần dựng xây một Việt Nam xanh, hùng cường và phát triển.

Hành trình trở thành quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới
Trải qua chiến tranh, tái thiết và công cuộc đổi mới, ngành nông nghiệp đã trở thành trụ đỡ của nền kinh tế quốc dân, đưa Việt Nam từ nước thiếu ăn trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.
Theo đó, Đảng đã ban hành các chủ trương đổi mới trong nông nghiệp, như Khoán 100 (năm 1981) và Khoán 10 (năm 1988) - mở đầu cho bước chuyển biến căn bản trong cơ chế quản lý, khơi dậy tiềm năng của người nông dân. Nông nghiệp Việt Nam dần thoát khỏi thời kỳ đói nghèo, hướng tới tự chủ và bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Bước vào công cuộc Đổi mới năm 1986, nông nghiệp Việt Nam có bước phát triển vượt bậc. Các chính sách mang tính đột phá, như Luật Đất đai (năm 1987 và 1993), cùng các chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ứng dụng khoa học - công nghệ, xây dựng nông thôn mới… đã mở ra thời kỳ phát triển toàn diện. Từ chỗ thiếu ăn, phải nhập khẩu lương thực trong thập niên 1980, Việt Nam đã tự bảo đảm an ninh lương thực và trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Năm 2024, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng gần 50 lần, đạt hơn 62,5 tỷ USD, đưa Việt Nam vào top 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới.
Các mặt hàng như gạo, cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản, rau quả liên tục nằm trong nhóm 5 nước xuất khẩu lớn nhất toàn cầu. Nông nghiệp thực sự đã trở thành trụ đỡ của nền kinh tế, góp phần ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và giảm nghèo bền vững.
Trong các giai đoạn khó khăn, khủng hoảng tài chính châu Á (1997-1998), suy thoái kinh tế toàn cầu (2008-2009) hay đại dịch Covid-19 nông nghiệp vẫn phát triển, giúp nền kinh tế duy trì tăng trưởng và ổn định xã hội. Đặc biệt, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (từ 2010) đã thay đổi căn bản diện mạo nông thôn, hơn 78% xã đạt chuẩn, hạ tầng được cải thiện, đời sống người dân được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 58% (năm 1993) xuống còn 4,06% (năm 2024). Đây là minh chứng rõ nét cho hiệu quả chính sách phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Với sứ mệnh là nền tảng cho xây dựng và phát triển đất nước, ngành tài nguyên và môi trường đã rất sớm được hình thành và phát triển. Ngay sau khi giành độc lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xác định quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trọng yếu, gắn liền với an sinh và đời sống nhân dân. Trên cơ sở đó, bộ máy quản lý nhà nước về đất đai, địa chất khoảng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu, biển - hải đảo, viễn thám… không ngừng được kiện toàn và mở rộng, đáp ứng yêu cầu phát triển của từng giai đoạn lịch sử của đất nước.
Song song với đó, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế cũng liên tục được tăng cường. Từ thập niên 90 đến nay, nhiều đạo luật quan trọng như: Luật Bảo vệ môi trường (1993), Luật Đất đai, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Lâm nghiệp, Luật Đa dạng sinh học… đã tạo dựng nền tảng pháp lý ngày càng đồng bộ cho quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, phù hợp với yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.
Các chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu cũng được triển khai mạnh mẽ; nhiều chương trình lớn như: Trồng mới 5 triệu ha rừng, Một tỷ cây xanh… đạt kết quả rõ rệt. Công tác bảo vệ môi trường trở thành trụ cột của phát triển bền vững, không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế. Nhờ vậy, nhận thức xã hội được nâng cao, tỷ lệ che phủ rừng duy trì trên 42%, nhiều hệ sinh thái được phục hồi, chất lượng môi trường được cải thiện.
Năm 2024, Việt Nam xếp 54/166 quốc gia về phát triển bền vững, tăng 34 bậc so với 2016, đứng thứ hai ASEAN; tỷ lệ thu gom, xử lý rác sinh hoạt đạt 97,28% ở đô thị và 83,1% ở nông thôn… qua đó, góp phần bảo đảm cân bằng sinh thái và an ninh tài nguyên quốc gia.

"80 năm qua, ngành Nông nghiệp và Môi trường đã viết nên trang sử vẻ vang cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong gian khó, bản lĩnh, ý chí tự lực và tinh thần sáng tạo, khát vọng của những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp, tài nguyên và môi trường đã được tôi luyện, hun đúc, trở thành nền tảng vững chắc cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hôm nay", Bộ trưởng Trần Đức Thắng khẳng định.
Năm giải pháp trọng tâm
Theo Bộ trưởng Trần Đức Thắng, trước yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển đất nước, Quốc hội khóa XV đã quyết nghị hợp nhất Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành Bộ Nông nghiệp và Môi trường từ ngày 01/3/2025. Đây là dấu mốc lịch sử quan trọng, thể hiện tầm nhìn chiến lược và quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước trong quản lý, khai thác và phát huy hiệu quả hơn các nguồn lực quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn và kỷ nguyên mới.
Ngay sau hợp nhất, Bộ đã nhanh chóng kiện toàn, ổn định tổ chức bộ máy, bảo đảm tinh gọn, hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng nhiệm vụ chính trị được giao. Cùng với quá trình kiện toàn, ổn định tổ chức, công tác thi đua khen thưởng cũng được quan tâm, chỉ đạo sâu sát. Các phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2020-2025 tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ, tạo khí thế sôi nổi, cổ vũ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động vượt qua khó khăn, đóng góp quan trọng vào việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của Bộ, của ngành.
Bước vào giai đoạn phát triển mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đất nước ta đang đứng trước những chuyển biến sâu sắc của thời đại: cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế tri thức, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp; cùng với đó là yêu cầu cấp bách về bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước và bảo vệ môi trường sinh thái toàn cầu. Những biến động cạnh tranh địa chính trị- kinh tế, thương mại, khí hậu và công nghệ… vừa mở ra thời cơ phát triển mới, nhưng cũng đặt ra những yêu cầu, thách thức to lớn đối với ngành Nông nghiệp và Môi trường.
Trong bối cảnh đó, mục tiêu xuyên suốt của ngành đó là phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh; bảo vệ, khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm an ninh môi trường, góp phần xây dựng đất nước phát triển nhanh, bền vững, phồn vinh, hạnh phúc.
Để thực hiện được mục tiêu ấy, toàn ngành đã và đang quán triệt và triển khai hiệu quả Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đây là định hướng chiến lược, là con đường tất yếu để phát huy sức mạnh nội sinh, khai thác tiềm năng, lợi thế, bảo đảm cho nông nghiệp nước ta phát triển toàn diện, bền vững. Cùng với đó, toàn ngành đang thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 3 tháng 01 năm 2023 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới; coi đây là nhiệm vụ thường xuyên, là trách nhiệm chính trị của cả hệ thống, của từng cán bộ, đảng viên và mỗi người dân.
Trên cơ sở đó, ngành Nông nghiệp và Môi trường sẽ tập trung thực hiện một số nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới.
Cụ thể, thứ nhất, hoàn thiện thể chế và mô hình quản trị hiện đại, thống nhất. Rà soát, sửa đổi toàn diện pháp luật về đất đai, nước, rừng, môi trường, khí hậu và nông nghiệp bảo đảm đồng bộ, minh bạch. Kiện toàn tổ chức Bộ máy tinh gọn, đa ngành, có khả năng hoạch định chiến lược và quản lý tổng hợp theo vùng, lưu vực và hệ sinh thái. Phân cấp mạnh gắn với trách nhiệm giải trình, nâng cao vai trò điều phối của Trung ương và hiệu lực quản lý ở địa phương.
Thứ hai, phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế xanh và tuần hoàn. Chuyển mạnh từ tăng trưởng chiều rộng sang giá trị bền vững dựa trên khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Nhân rộng mô hình phát thải thấp, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý rừng bền vững. Thiết lập tiêu chuẩn xanh, nâng tầm thương hiệu nông sản Việt Nam gắn với truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý và tín chỉ các-bon.
Thứ ba, quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên quốc gia. Khai thác sử dụng tiết kiệm đất, nước, rừng, khoáng sản, biển phục vụ phát triển đất nước lâu dài. Số hóa, công khai dữ liệu tài nguyên - môi trường, nâng cao quản trị dựa trên kết quả, bằng chứng.
Thứ tư, thúc đẩy khoa học - công nghệ và chuyển đổi số, xác định đây là động lực bứt phá. Ứng dụng trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, cảm biến, chuỗi khối trong giám sát tài nguyên và nông nghiệp thông minh. Đẩy mạnh nghiên cứu giống cây, con thích ứng khí hậu; hỗ trợ khởi nghiệp và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo ở nông thôn.
Thứ năm, nâng cao hiệu lực quản trị và huy động nguồn lực cho chuyển đổi xanh. Khai thông nguồn lực trong nước và quốc tế, nhất là tài chính về khí hậu, ODA thế hệ mới, vốn tư nhân cho đầu tư xanh. Chủ động tham gia các sáng kiến toàn cầu về phát thải ròng Net Zero, kinh tế các-bon thấp; khẳng định vai trò và vị thế Việt Nam trong khu vực và thế giới.