Xây dựng sức mạnh mềm Việt Nam
Việt Nam có một vốn lịch sử, văn hóa dầy dặn. Làm sao để khai thác đúng những tiềm năng này để xây dựng nên một sức mạnh mềm quốc gia.
Kinh tế, quân sự hay công nghệ được coi là những “sức mạnh cứng” của một quốc gia. Tuy nhiên, một phần còn lại, mang tính chiến lược rất cao và tạo ra lợi thế cạnh tranh của các nước, chính là sức mạnh mềm. Theo PGS TS Phan Thanh Bình - Nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục Quốc hội, Nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia TPHCM - phát biểu tại diễn đàn “Thời khắc Việt 2025: Sức mạnh mềm Việt Nam” ở TPHCM thì sức mạnh mềm không dựa vào quyền lực hay tiền bạc nhưng vẫn khiến cho mọi người “thu hút, cảm thấy hứng thú với chúng ta, và nghiêng về chúng ta, ủng hộ chúng ta”.
Việt Nam đang sở hữu những lợi thế về trí tuệ, bản lĩnh, lịch sử và văn hóa. Ngay cả ẩm thực cũng được công nhận là một sức mạnh mềm tiềm năng của Việt Nam. Thế nhưng, khi nhìn vào bản đồ sức mạnh mềm toàn cầu, theo đánh giá của tổ chức Brand Finance (Anh) về Soft Power 2025 (bản xếp hạng sức mạnh mềm), Việt Nam đứng ở hạng thứ 52 trong 129 nước được xếp hạng, và đứng thứ năm trong số sáu nước ASEAN được đánh giá. Một thứ hạng vẫn còn khiêm tốn nếu so với tiềm năng của Việt Nam.
Lòng tin

Sức mạnh mềm được GS Joseph S. Nye Jr. - một học giả hàng đầu về khái niệm sức mạnh mềm của Đại học Harvard - định nghĩa là "năng lực chinh phục bằng niềm tin, cảm hứng và giá trị", đòi hỏi một nền móng đạo đức vững chắc. Ông Trần Sĩ Chương - chuyên gia kinh tế và chiến lược doanh nghiệp - nhận định có một mẫu số chung của năm nước phát triển thành công xung quanh Việt Nam. Mẫu số đó là hai yếu tố: Phẩm chất đạo đức (Tính chính trực - Integrity) và Năng lực quản trị (Làm là làm được việc). “Không có những phẩm chất này, một quốc gia không thể xây dựng được sức mạnh mềm”, ông Chương nêu quan điểm.
Sức mạnh mềm được duy trì bằng sự nhất quán và bằng sự giữ lời hứa, theo ông Võ Quang Huệ - Chủ tịch FoundryAI Viet Nam, Nguyên Tổng Giám đốc Bosch Việt Nam, Nguyên Phó Tổng Giám đốc Vingroup. Ông đề xuất một khẩu hiệu mới của Việt Nam là Trust in Vietnam (Tin vào Việt Nam), bởi vì sức mạnh quốc gia phải được xây dựng bằng cách "vừa phát triển kinh tế vừa xây dựng danh tiếng quốc gia". Danh tiếng này chỉ được xây bằng hành động đúng, giữ lời hứa, và con người tử tế.
Ông Võ Quang Huệ xác định, sức mạnh mềm có ba yếu tố quan trọng nhất để định hình: Con người, Văn hóa và Thể chế. Thể chế chính là "nền móng của niềm tin của quốc gia", giúp doanh nghiệp yên tâm đầu tư, học giả mạnh dạn nghiên cứu và người dân tự tin.
Ông Phạm Minh Toàn - Tổng giám đốc VietFest - kiến nghị cần hình thành một Ủy ban Quốc gia về quyền lực mềm/công nghiệp văn hóa. Theo ông Toàn, một bộ riêng lẻ (ví dụ Bộ Văn hóa hay Bộ Ngoại giao) thì khó giải quyết được, vì muốn làm mức công nghiệp (quy mô lớn) thì cần tính liên kết cao.
Bên cạnh đó, Việt Nam đang thiếu nhiều công trình hạ tầng để phát triển công nghiệp văn hóa. Ông Toàn dẫn chứng rằng TPHCM thiếu các không gian biểu diễn đủ tiêu chuẩn quốc tế, ví dụ như nhóm Blackpink không biểu diễn ở TPHCM vì thiếu sân vận động đủ tiêu chuẩn theo yêu cầu.
Rào cản lớn khác là về tài chính và chính sách. Việt Nam còn thiếu cơ chế Hợp tác Công - Tư (PPP) trong lĩnh vực văn hóa và thiếu chính sách ưu đãi thuế cụ thể cho công nghiệp văn hóa. Khi các đoàn làm phim quốc tế hỏi về chính sách hoàn thuế (như Busan công bố rất mạnh là hoàn thuế 40%), Việt Nam không thể trả lời được chính xác.
Chiến lược kể chuyện

Để văn hóa Việt Nam, với vẻ đẹp "tinh tế" của mình, thực sự tạo ra sự khác biệt, Việt Nam cần chiến lược kể chuyện rõ ràng.
Ông Phạm Minh Toàn cho rằng Việt Nam cần tìm ra những "điểm chạm với thế giới" và biến những câu chuyện truyền thống của Việt Nam thành tính toàn cầu. Chiến lược này cần phạm vi rộng, bao gồm cả "ẩm thực, có cả trong thời trang, có cả trong phim ảnh". Mục tiêu là khiến những câu chuyện như Tấm Cám hay Thánh Gióng trở thành các câu chuyện chung của thế giới, “giống như Natra hay Võ công của Trung Quốc”, ông Toàn nói.
Tuy nhiên, muốn công nghiệp văn hóa phát triển thì phải có động lực kinh tế. Ông Toàn chỉ ra rằng nhiều sự kiện văn hóa quốc tế của Việt Nam vẫn mang tính "phục vụ quần chúng" và "không bán vé". Một ngành công nghiệp văn hóa muốn phát triển thì phải "thu được tiền từ công chúng cuối cùng". Việt Nam phải xây dựng tập quán mua vé và tổ chức các sự kiện thường niên có khả năng khai thác khách quốc tế.
Để sức mạnh mềm Việt Nam phát huy đúng với tiềm năng lịch sử và văn hóa vốn có, cần có sự thống nhất hành động giữa người Việt trong nước và ngoài nước, cùng với việc nhà nước phải có những kế hoạch, chương trình quốc gia, và những cơ quan thực sự chủ trì chiến lược này.