Kinh tế địa phương

Cà phê Gia Lai hiện có mặt ở hơn 60 quốc gia

Tuấn Vỹ 14/11/2025 20:04

Mỗi năm Gia Lai xuất khẩu khoảng 240 nghìn tấn cà phê, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh, hiện có mặt tại hơn 60 quốc gia.

Đó là thông tin từ đại diện Sở Công thương Gia Lai tại Hội nghị tập huấn “Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thương hiệu nông sản tỉnh Gia Lai trên thị trường quốc tế” tại phường Pleiku do Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam chi nhánh miền Trung - Tây Nguyên (VCCI miền Trung - Tây Nguyên) phối hợp Sở Công thương Gia Lai tổ chức ngày 14/11. Hội nghị nhằm cập nhật xu hướng mới trong xúc tiến thương mại và phát triển thị trường quốc tế; Nâng cao kỹ năng đàm phán, giới thiệu sản phẩm, ứng dụng chuyển đổi số trong quảng bá nông sản địa phương,...

846b2626e31e6f40360f.jpg
Hội nghị tập huấn “Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, phát triển thương hiệu nông sản tỉnh Gia Lai trên thị trường quốc tế” do VCCI miền Trung - Tây Nguyên phối hợp tổ chức ngày 14/11.

Theo ông Nguyễn Lê Trường - Phó Trưởng phòng Quản lý thương mại (Sở Công thương Gia Lai) địa phương đang khẳng định vị thế là vùng nguyên liệu chiến lược khu vực Tây Nguyên trong sản xuất nông sản xuất khẩu. Vị này cho hay, việc tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, đạt tiêu chuẩn quốc tế không chỉ là xu thế tất yếu giúp nông sản Gia Lai mở rộng thị trường, mà còn thể hiện cam kết mạnh mẽ của tỉnh phát triển nền nông nghiệp xanh, sạch và bền vững.

“Về thị trường xuất khẩu, cà phê Gia Lai hiện có mặt tại hơn 60 quốc gia; trái cây tươi được xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc; trong khi trái cây chế biến đang dần chinh phục thị trường châu Âu với yêu cầu cao về chất lượng và truy xuất nguồn gốc. Về quy mô và kim ngạch xuất khẩu, mỗi năm Gia Lai xuất khẩu khoảng 240 nghìn tấn cà phê, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh. Những năm gần đây, nhóm chuối, sầu riêng, chanh dây, xoài trở thành điểm sáng, góp phần đa dạng hóa cơ cấu hàng xuất khẩu nông sản. Cùng với đó, sự đầu tư của tập đoàn lớn như Nafoods, Hoàng Anh Gia Lai, Thaco Agri… hình thành vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, tạo bước chuyển rõ rệt trong sản xuất hàng hóa phục vụ xuất khẩu”, ông Trường cho hay.

Về số liệu, năm 2025, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản của Gia Lai ước đạt khoảng 1,4 tỷ USD, tăng mạnh so với các năm trước, khẳng định vai trò then chốt của ngành nông nghiệp trong phát triển kinh tế, đồng thời cho thấy tiềm năng lớn để nông sản Gia Lai tiếp tục vươn xa trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, xu hướng tiêu dùng quốc tế thay đổi nhanh, yêu cầu về chất lượng, truy xuất nguồn gốc, tiêu chuẩn bền vững và thương hiệu ngày càng cao, thì công tác xúc tiến thương mại và phát triển thương hiệu nông sản cần được tổ chức chuyên nghiệp, bài bản và có tầm nhìn dài hạn.

579998561_2316821342137670_670938895028117555_n.jpg
Thạc sĩ Nguyễn Thị Mỹ Châu – Giảng viên cao cấp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng khi thực hiện các chính sách xanh, doanh nghiệp sẽ tiếp cận sớm các thị trường đầy tiềm năng.

Thông tin tại Hội nghị, Thạc sĩ Nguyễn Thị Mỹ Châu – Giảng viên cao cấp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đề cập đến một số thách thức đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi chính sách xanh nhiều về số lượng, phức tạp về tính chất, và liên tục phát triển theo thời gian. Đồng thời, không có một bộ các tiêu chuẩn xanh chung, không có lộ trình chuyển đổi xanh thống nhất cho tất cả các loại hàng hóa xuất khẩu sang châu Âu (EU).

Cùng với đó, năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp về công nghệ, kiểm soát chuỗi cung ứng, kỹ năng của lao động, năng lực giải trình, khai báo, lưu trữ thông tin của doanh nghiệp hiện nay vẫn còn nhiều thách thức. Việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao nhận thức, đầu tư vốn, năng lực quản trị,…

“Khi chủ động thực hiện các chính sách xanh, doanh nghiệp sẽ tiếp cận sớm thị trường các sản phẩm xanh đầy tiềm năng của EU. Đồng thời, mở rộng khả năng xuất khẩu của doanh nghiệp tới các thị trường phát triển khác vốn cũng đang thúc đẩy các hành động nhằm thực hiện các mục tiêu khí hậu tương tự EU (như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Australia…) Đầu tư ban đầu cao nhưng lại có thể là nhân tố giúp tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh về dài hạn và thúc đẩy tiến trình chuyển đổi xanh trong nội địa nền kinh tế”, Thạc sĩ Châu nói.

Ngoài ra, vị này cũng đề cập đến việc chính sách xanh của EU cũng đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm nông sản, thực phẩm. Cụ thể, chiến lược “Từ trang trại đến bàn ăn”– Quy định về chống phá rừng – EU deforestation-free products regulation -EUDR (trong khuôn khổ Kế hoạch hành động của Chiến lược đa dạng sinh học của EU đến năm 2030) có quy định cụ thể sản phẩm nhập khẩu vào EU không được nuôi trồng trên đất phá rừng hoặc làm suy thoái rừng.

Theo đó, sẽ cấm nhập khẩu 7 nhóm mặt hàng (cà phê, dầu cọ, gỗ, cao su, thịt bò, ca cao và đậu) vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này gây mất rừng. Song song là quy định về Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất, CBAM… (nếu các chính sách này mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng ra cả các sản phẩm nông sản thực phẩm).

Vì vậy, bà Châu đề xuất các doanh nghiệp cần tạo giá trị gia tăng cho nông sản. Cụ thể là tập trung vào giá trị cốt lõi, sáng tạo để sự khác biệt cho sản phẩm, da dạng chủng loại, cam kết theo chuẩn và thay đổi cho phù hợp với từng thị trường,...

Tuấn Vỹ