Kinh tế thế giới

AI khiến Malaysia phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch

Quân Bảo 14/11/2025 18:35

AI khiến Malaysia đứng trước lựa chọn khó khăn: giữ vững mục tiêu phát triển bền vững hay phải dùng dầu mỏ để có lượng điện khổng lồ cho các trung tâm dữ liệu.

Theo báo cáo của Energy Watch, thị trường trung tâm dữ liệu của Malaysia dự kiến đạt 2,25 tỷ USD vào năm 2028, tăng 72% so với năm 2022. Sự bùng nổ này làm thay đổi sâu sắc bức tranh kinh tế và năng lượng của Malaysia, khi lượng điện mà những trung tâm dữ liệu này cần là rất lớn.

c.png
AI khiến Malaysia đứng trước lựa chọn khó khăn: giữ vững mục tiêu phát triển bền vững hay phải dùng dầu mỏ

Thống kê từ Ember cho thấy năng lượng tiêu thụ từ các trung tâm dữ liệu sẽ tăng ít nhất bảy lần, từ 8,5 terawatt giờ (TWh) vào năm 2024 lên tới 68 TWh vào năm 2030. Mức tăng này tương đương gần 30% tổng nhu cầu điện hiện tại của Malaysia, cũng bằng toàn bộ lượng điện tiêu thụ của Singapore năm 2023.

Trong bối cảnh ấy, Malaysia đứng trước một câu hỏi khó, đó là phải lấy năng lượng từ đâu để đáp ứng nhu cầu khổng lồ này, khi các lựa chọn đều có những ưu điểm và nhược điểm không thể xem thường.

Phương án đầu tiên là nhiên liệu hóa thạch. Hiện nay, nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu năng lượng của Malaysia. Theo Hiệp hội Năng lượng và Khí đốt Tự nhiên châu Á, trong năm 2023, gần một nửa lượng điện của Malaysia được sản xuất từ than, 36% từ khí tự nhiên (cũng là nhiên liệu hóa thạch) và chỉ 17% từ thủy điện.

Malaysia từng tuyên bố muốn loại bỏ than, với mốc thời gian đặt ra là năm 2050. Vậy nên giải pháp mà quốc gia này lựa chọn là tăng cường sử dụng khí đốt.

Cụ thể, trước dự báo nhu cầu điện quốc gia sẽ tăng 30% vào năm 2030, Tập đoàn điện lực quốc gia Tenaga Nasional Berhad (TNB) lên kế hoạch bổ sung 6 đến 8 gigawatt (GW) công suất điện khí mới đến năm 2030. Con số này tương đương với việc tăng 40 - 54% so với hiện tại. Đây cũng là một phần trong kế hoạch loại bỏ dần than, đồng thời đảm bảo nguồn điện ổn định để phục vụ sự bùng nổ hạ tầng kỹ thuật số. Ông Megat Jalaluddin, Giám đốc điều hành TNB, gọi khí đốt là “lựa chọn tốt nhất kế tiếp sau than”.

Tuy nhiên với nhu cầu về năng lượng được dự báo cao như vậy thì Malaysia có thể phải đối mặt với nguy cơ nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) trong vòng 4 - 5 năm tới, mặc dù trước đó họ vốn là nhà xuất khẩu loại nhiên liệu này. Điều này sẽ gây áp lực không nhỏ đến cán cân thương mại và dự trữ ngoại hối của quốc gia này.

cc.jpg
Malaysia có thể phải đối mặt với nguy cơ nhập khẩu khí tự nhiên hóa lỏng

Không chỉ tạo áp lực lên tài chính, việc dựa vào khí đốt để phục vụ nhu cầu năng lượng bùng nổ còn đe dọa mục tiêu khí hậu của Malaysia. Tuy được xem là nhiên liệu ít gây tổn hại đến môi trường hơn than, nhưng khí đốt vẫn phát thải các loại khí gây hiệu ứng nhà kính (bằng khoảng 50% so với than). Không chỉ vậy, quá trình khai thác và vận chuyển khí đốt còn gây nguy cơ rò rỉ khí methane, một loại khí gây hiệu ứng nhà kính gấp 84 lần so với CO₂.

Phương án thứ hai của Malaysia là năng lượng tái tạo. Nhưng có vẻ con đường không khả thi vì họ chưa đạt được tiến độ đề ra với loại năng lượng này.

Theo Lộ trình Chuyển đổi Năng lượng Quốc gia, Malaysia đặt mục tiêu năng lượng tái tạo chiếm 31% công suất lắp đặt vào năm 2025 và 40% vào năm 2035, chủ yếu từ điện mặt trời. Tuy nhiên, khi mục tiêu đầu tiên đã cận kề, tiến độ vẫn chậm, làm lộ rõ khoảng cách giữa kế hoạch và thực tế. Dù chính phủ đã khởi động hàng chục sáng kiến năng lượng sạch hướng đến mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, nhưng sự trì trệ trong triển khai đang làm suy yếu đà chuyển đổi.

Phương án thứ ba là kéo dài tuổi thọ các nhà máy nhiệt điện than thông qua việc phát triển công nghệ thu giữ và lưu trữ carbon (CCS) ở quy mô lớn. Tuy nhiên, CCS ngày càng bị coi là giải pháp “ảo” cho biến đổi khí hậu vì hiệu quả thực tế thấp, tiêu tốn năng lượng, chi phí cao và nguy cơ rò rỉ CO₂. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), hiện các dự án CCS mới chỉ xử lý được dưới 0,1% lượng phát thải toàn cầu. Con số này quá nhỏ, không thể tạo khác biệt thực sự.

Ba hướng đi này đều có những ưu điểm và nhược điểm lớn, vậy nên giới chức Malaysia chắc chắn sẽ phải cân nhắc rất nhiều khi lựa chọn. Mọi chuyện càng khó khăn hơn khi thời gian đang gấp rút.

Báo cáo của Ember cảnh báo rằng nếu Malaysia không đầu tư mạnh vào năng lượng mặt trời và gió với tổng vốn 45 - 75 tỷ USD trước năm 2030, ngành kỹ thuật số khiến quốc gia này phụ thuộc nặng nhiên liệu hóa thạch, gia tăng rủi ro địa chính trị và gây áp lực lên nguồn điện của các ngành khác.

Quân Bảo