Sửa Luật Thuế thu nhập cá nhân: Cần tạo động lực cho đổi mới sáng tạo
Nhiều ý kiến cho rằng, chính sách thuế cần trở thành công cụ thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tư nhân và định hướng dòng vốn vào những lĩnh vực mang tính động lực chiến lược.
Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) đang thu hút sự quan tâm lớn khi nhiều nội dung mới được đưa ra nhằm cập nhật thực tiễn đời sống, phù hợp thông lệ quốc tế và hướng tới xây dựng hệ thống thuế công bằng, hiệu quả hơn. Nhiều ý kiến ghi nhận nỗ lực của cơ quan soạn thảo, đồng thời đề xuất bổ sung một số ưu đãi mang tính chiến lược để chính sách thuế không chỉ bảo đảm an sinh mà còn thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tư nhân và thị trường vốn.

Hoan nghênh việc cơ quan soạn thảo bổ sung quy định cho phép giảm trừ thu nhập chịu thuế đối với một số khoản chi như y tế, giáo dục – đào tạo, tham gia bảo hiểm bắt buộc, đóng góp vào quỹ hưu trí bổ sung, mua bảo hiểm hưu trí tự nguyện và bảo hiểm nhân thọ, ông Đỗ Đức Hiển, ĐBQH TP Hồ Chí Minh đánh giá đây là bước tiến quan trọng. Theo ông, các điều chỉnh này không chỉ khuyến khích tiết kiệm dài hạn mà còn góp phần củng cố an sinh xã hội, giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.
Tuy nhiên, đại biểu cho rằng nếu chỉ dừng lại ở các ưu đãi mang tính an sinh thì chính sách thuế thu nhập cá nhân mới đáp ứng được một phần rất hạn chế mục tiêu đặt ra. Chính sách vẫn chưa đủ mạnh để tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tư nhân, hình thành doanh nghiệp khởi nghiệp, quỹ đầu tư mạo hiểm hay quỹ phát triển hạ tầng - những nội dung được nhấn mạnh trong Nghị quyết số 57-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với mục tiêu tăng trưởng hai con số, hướng tới trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, cùng nhu cầu đầu tư rất lớn cho các dự án hạ tầng chiến lược, đại biểu Đỗ Đức Hiển nhấn mạnh sự cần thiết phải căn chỉnh lại mô hình chính sách thuế thu nhập cá nhân. Theo hướng vừa bảo đảm tính trung lập, vừa tạo động lực khuyến khích đầu tư và đổi mới sáng tạo.
Từ đó, ông đề xuất nghiên cứu bổ sung các ưu đãi có mục tiêu, có điều kiện đối với phần tiền lương, tiền công mà người nộp thuế sử dụng để đầu tư vào những lĩnh vực được Đảng và Nhà nước xác định là động lực chiến lược. Cách tiếp cận này sẽ giúp định hướng dòng tiền của cá nhân vào thị trường vốn thay vì trú ẩn vào các tài sản mang tính thụ động.
Cụ thể, đại biểu kiến nghị mở rộng nhóm khoản chi được giảm trừ khỏi thu nhập chịu thuế, bao gồm phần tiền lương, tiền công đóng góp vào doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp; khoản chi mua bảo hiểm y tế tư nhân ngoài bảo hiểm y tế bắt buộc; khoản tiền lương, tiền công dùng để mua và nắm giữ dài hạn các sản phẩm tài chính được Nhà nước cho phép thành lập và giám sát.
Đồng thời, để tránh trục lợi chính sách, đại biểu lưu ý cần thiết lập các điều kiện áp dụng rõ ràng, giới hạn mức giảm trừ tối đa theo tỷ lệ phần trăm thu nhập chịu thuế và mức trần tuyệt đối theo năm. Bên cạnh đó, phải quy định thời gian nắm giữ tối thiểu, chẳng hạn từ 3–5 năm đối với khoản góp vốn, chứng chỉ quỹ; riêng với quỹ hưu trí bổ sung tự nguyện, thời hạn nắm giữ nên kéo dài tới tuổi nghỉ hưu. Nếu rút trước hạn, người nộp thuế phải bị truy thu và xử phạt chậm nộp theo quy định.
Đồng quan điểm, TS Nguyễn Thị Cẩm Giang - Giảng viên Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng đánh giá cao chính sách giảm 50% thuế thu nhập cá nhân cho nhân lực công nghệ cao trong Dự thảo.

Theo chuyên gia, đây là một bước đi đáng chú ý và có thể tạo ra tác động tích cực trong chiến lược thu hút, giữ chân nhân tài công nghệ tại Việt Nam. Việc giảm trực tiếp nghĩa vụ thuế giúp tăng thu nhập thực nhận, qua đó cải thiện mức độ cạnh tranh của thị trường lao động trong nước so với các quốc gia trong khu vực. Đây là ưu đãi tài chính có tính chất khích lệ mạnh, nhất là đối với những vị trí chuyên môn cao, vốn đang có mức độ dịch chuyển lao động ngày càng lớn.
Tuy vậy, để chính sách thực sự hấp dẫn và vận hành hiệu quả, cần bảo đảm một hệ thống tiêu chí minh bạch, thống nhất trong việc xác định thế nào là “nhân lực công nghệ cao”. Quy trình thẩm định, xác minh và phân loại phải rõ ràng, tránh tình trạng mở rộng đối tượng hoặc lạm dụng ưu đãi, gây méo mó thị trường lao động và ảnh hưởng tới công bằng thuế.
Song song với yếu tố thuế, ưu đãi này chỉ phát huy tối đa tác dụng khi được đặt trong một hệ sinh thái phát triển nhân lực hoàn chỉnh. Điều đó bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng nghiên cứu, kết nối doanh nghiệp với viện nghiên cứu và các trường đại học, cùng các chính sách đào tạo và phúc lợi gắn với kết quả đầu ra.
“Nếu được thiết kế và triển khai bài bản, ưu đãi giảm 50% thuế thu nhập cá nhân sẽ là công cụ quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tri thức, thu hút chuyên gia chất lượng cao và hỗ trợ quá trình xây dựng ngành công nghiệp số tại Việt Nam”, TS Nguyễn Thị Cẩm Giang.