Tài sản trí tuệ
Từ cấp độ cá nhân đến cộng đồng xã hội hay quốc gia - trí tuệ chính là một loại tài sản đặc biệt.
Nhưng tại Việt Nam, nhìn dưới góc độ kinh tế, tài sản trí tuệ vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau khi cần được lượng hóa giá trị để đưa vào dạng có thể thế chấp khoản vay từ ngân hàng.

Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, điểm đáng mới đáng chú ý là cho phép chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ lập danh mục và tự xác định giá trị tài sản trí tuệ, đồng thời khuyến khích sử dụng tài sản trí tuệ để thế chấp, vay vốn.
Tại nhiều quốc gia, việc sử dụng tài sản trí tuệ như bằng sáng chế, bản quyền phần mềm, thương hiệu, thiết kế công nghiệp hay giống cây trồng,… để thế chấp vay vốn đã trở thành một xu hướng phát triển mạnh. Đây được xem là một giải pháp tài chính mới, đặc biệt hữu ích với các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Khác với tài sản hữu hình, tài sản trí tuệ mang tính đặc thù: vô hình, có thể nhân bản, có thời hạn bảo hộ và phụ thuộc nhiều vào thị trường. Tuy nhiên, điều làm nó trở nên giá trị chính là khả năng tạo ra lợi nhuận ổn định trong tương lai - từ bản quyền phần mềm, phí nhượng quyền thương hiệu cho tới thương mại hóa sáng chế.
Trong nhiều trường hợp, thương hiệu hay bằng sáng chế còn có giá trị vượt xa tài sản vật chất của doanh nghiệp - điển hình như Apple, Tesla hay TikTok, nơi tài sản trí tuệ là trụ cột định giá doanh nghiệp.
Chẳng hạn, thương vụ chuyển nhượng TikTok tại Mỹ, được thảo luận dựa trên 2 kịch bản, bao gồm thuật toán và không bao gồm thuật toán, từ đó có hai mức giá khác nhau rất chênh lệch. Có nghĩa rằng, trong thế giới kinh doanh đương đại “thuật toán” được xem là một loại tài sản vô hình, hoàn toàn có cách để “định giá”.
Sau đó Tổng thống Trump ký sắc lệnh bán TikTok Mỹ với mức giá 14 tỉ USD, kèm điều khoản chủ sở hữu mới sẽ thuê quyền sử dụng một bản sao của thuật toán từ công ty mẹ ByteDance.
Thực tiễn tại nhiều quốc gia phát triển trong bối cảnh nền kinh tế tri thức và công nghệ số là lực lượng sản xuất chủ đạo, tài sản trí tuệ ngày càng trở thành một nguồn lực quan trọng, vượt ra khỏi khuôn khổ của giá trị vô hình để trở thành tài sản có thể định giá, giao dịch và tài trợ vốn.
ĐBQH Nguyễn Hoàng Bảo Trân (TP HCM) đặt ra những câu hỏi: Việc định giá dựa trên chuẩn nào? Cách xử lý tài sản khi phát sinh nghĩa vụ nợ ra sao? Ai chịu trách nhiệm khi tài sản đang tranh chấp, bị hủy hiệu lực hoặc mất giá trị kinh tế?
Theo tổ chức World Intellectual Property Organization (WIPO), có ba phương pháp chính để định giá: Phương pháp thu nhập - dựa trên dòng lợi ích kinh tế trong tương lai mà tài sản sẽ mang lại, rồi chiết khấu về hiện tại. Phương pháp thị trường - so sánh với giao dịch tài sản trí tuệ tương đương trên thị trường, để xác định giá tham chiếu. Phương pháp chi phí - dựa vào chi phí tạo ra.
Nếu đã công nhận trí tuệ là tài sản thì phải tạo ra công cụ để “nắm” được tài sản ấy, và đã là tài sản - đương nhiên được huy động trở thành nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế, tránh lãng phí.