Kiến nghị
Cần cân nhắc kỹ quy định về thu gom, tái chế khí HFC
VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc kỹ lưỡng, đảm bảo quy định ban hành thực sự cần thiết, phù hợp cam kết quốc tế và không tạo thêm gánh nặng không đáng có cho doanh nghiệp.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 06/2022/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 119/2025/NĐ-CP (Dự thảo). VCCI cho biết đã tổng hợp ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp và bước đầu nêu ra một số điểm cần được rà soát kỹ lưỡng trong Dự thảo.

Theo Nghị định 06/2020/NĐ-CP, việc thu gom, vận chuyển, lưu giữ các chất được kiểm soát phải đáp ứng quy trình kỹ thuật. Căn cứ vào quy định này, Bộ Tài nguyên và Môi trường (cũ) đã ban hành Thông tư 20/2023/TT-BTNMT ban hành Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia 76:2023/BTNMT về thu gom, vận chuyển, lưu giữ, tái chế, tái sử dụng và xử lý các chất được kiểm soát. Trong quá trình soạn thảo, cơ quan soạn thảo cho rằng việc ban hành quy chuẩn là cần thiết nhằm thực thi Nghị định thư Montreal và Bản sửa đổi bổ sung Kigali. Theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ cắt giảm 80% lượng tiêu thụ môi chất lạnh thuộc nhóm HFC vào năm 2045.
Tuy nhiên, theo VCCI, cam kết quốc tế không thực sự yêu cầu Việt Nam phải ban hành văn bản này. Để thực hiện nghĩa vụ cắt giảm lượng chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal, từ năm 2005, Việt Nam đã có chính sách hạn ngạch nhập khẩu các chất được kiểm soát được thể hiện tại Thông tư liên tịch 14/2005/TTLT-BTM-BTNMT và Thông tư liên tịch 47/2011/TTLT-BCT-BTNMT. Các văn bản này đều đưa ra lộ trình giảm dần hạn ngạch nhập khẩu theo đúng các cam kết quốc tế của Việt Nam. Từ năm 2005 đến nay, chỉ bằng chính sách hạn ngạch nhập khẩu, Việt Nam đã đáp ứng các nghĩa vụ quốc tế của mình theo báo cáo của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP).
“Nghị định thư không phân biệt tiêu thụ theo lượng được thu gom hay không thu gom. Do đó, việc bổ sung thêm nghĩa vụ thu gom, lưu trữ hay xử lý là vượt quá yêu cầu quốc tế”, VCCI nhấn mạnh.
Thực tiễn cho thấy hạn ngạch nhập khẩu các chất được kiểm soát của Việt Nam ngày càng giảm. Nếu như giai đoạn 2015-2019 được nhập khẩu 3600 tấn thì giai đoạn 2020-2022 chỉ còn nhập khẩu 2600 tấn. Dự kiến giai đoạn 2025-2029 hạn ngạch là 1300 tấn và từ 2030 trở đi sẽ chỉ còn một lượng rất nhỏ.
Hệ quả là các loại khí được kiểm soát trên thị trường tăng gấp đôi chỉ sau một đợt siết hạn ngạch vào năm 2020, theo phản ánh của doanh nghiệp. Với chi phí cao, bản thân các cơ sở điện lạnh đã chủ động thu gom, tái chế và hạn chế tối đa thất thoát, không cần bất kỳ chế tài mới nào.
“Nếu hạn ngạch tiếp tục giảm theo lộ trình, giá khí sẽ còn tăng mạnh, buộc doanh nghiệp tự tiết kiệm. Việc áp dụng đồng thời cả hạn ngạch và các biện pháp kỹ thuật bổ sung là không cần thiết”, VCCI phân tích.
Bên cạnh tính cần thiết, VCCI cũng bày tỏ lo ngại về gánh nặng chi phí nếu Quy chuẩn được áp dụng bắt buộc. Các yêu cầu về trang thiết bị như máy thu hồi, bình chứa, cân định lượng, bơm chân không, thiết bị kiểm tra rò rỉ, đồng hồ đo áp suất, đồng hồ đo điện và yêu cầu trình độ trung cấp hoặc có chứng chỉ đào tạo của kỹ thuật viên đều làm chi phí của cơ sở điện lạnh tăng đáng kể.
Một số doanh nghiệp tính toán chi phí có thể đội lên 15–20%, kéo theo giá dịch vụ sửa chữa – bảo dưỡng tăng, đặc biệt trong mùa cao điểm. Nguy cơ thiếu nhân lực có chứng chỉ cũng được cảnh báo, nhất là tại khu vực nông thôn và vùng xa trung tâm.

Từ các phân tích trên, VCCI cho rằng việc viện dẫn Nghị định thư Montreal và Bản sửa đổi Kigali để tạo cơ sở bắt buộc ban hành Quy chuẩn QCVN 76:2023 là chưa thuyết phục, nhất là khi Việt Nam đang thực hiện hiệu quả chính sách hạn ngạch – biện pháp đã đủ để đáp ứng cam kết quốc tế.
“Những quy định kỹ thuật mới có thể tạo ra chi phí xã hội không cần thiết, trong bối cảnh doanh nghiệp đã tự điều chỉnh hành vi để thích ứng với việc siết hạn ngạch”, VCCI nêu rõ.