Nghiên cứu - Trao đổi

Nghiên cứu - Trao đổi

Sửa đổi Luật Đầu tư: Cần có tiêu chí rõ ràng trong hỗ trợ đầu tư

Yến Nhung 06/12/2025 04:15

Nhiều ý kiến cho rằng, Dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi cần có tiêu chí rõ ràng, minh bạch trong hỗ trợ đầu tư để tránh lạm dụng, trùng lặp và bảo đảm hiệu quả thực chất.

Đánh giá cao tinh thần cải cách thể hiện trong Dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi (Dự thảo), nhất là việc bổ sung cơ chế ưu đãi đặc biệt, mở rộng thẩm quyền quyết định đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế, và cải thiện thủ tục hành chính theo hướng giảm tầng nấc trung gian, đại biểu Nguyễn Văn Huy, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên nhận định Dự thảo đã sửa đổi Điều 14 từ “hình thức và đối tượng ưu đãi đầu tư” thành “ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư”, đồng thời chỉ quy định những vấn đề mang tính khung, mang tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Cách tiếp cận này tạo dư địa linh hoạt hơn cho Chính phủ trong việc xác định ngành nghề ưu đãi theo từng giai đoạn, đồng thời giúp các bộ, ngành rà soát, thu hẹp danh mục ưu đãi theo hướng trọng tâm – trọng điểm.

Việc cắt giảm ngành, nghề kinh doanh có điều kiện cần được thực hiện mạnh mẽ hơn, dựa trên tiêu chí rủi ro công cộng và nguyên tắc minh bạch.
Dự thảo đã sửa đổi Điều 14 từ “hình thức và đối tượng ưu đãi đầu tư” thành “ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư”, đồng thời chỉ quy định những vấn đề mang tính khung, mang tính nguyên tắc thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Dù vậy, ông Huy cho rằng quy định mới vẫn bộc lộ một số bất cập đáng chú ý, đặc biệt là tiêu chí xác định đối tượng ưu đãi chưa được lượng hóa rõ ràng. Việc mở rộng ưu đãi cho các dự án “quy mô vốn lớn”, “sử dụng nhiều lao động” hay “dự án trọng điểm, quan trọng quốc gia” chưa có định nghĩa thống nhất, dễ dẫn tới cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan và nguy cơ áp dụng tùy tiện.

Đáng lưu ý hơn, việc ưu tiên dự án quy mô vốn lớn có thể tạo thiên lệch chính sách theo hướng ưu ái nhà đầu tư FDI, làm giảm cơ hội tiếp cận ưu đãi của doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Vì vậy, ông Huy đề xuất cần giao Chính phủ quy định rõ ràng ngưỡng vốn tối thiểu, số lượng lao động, mức độ lan tỏa công nghệ; đồng thời công khai và cập nhật định kỳ các tiêu chí này. Bên cạnh đó, cần bổ sung cơ chế thẩm định độc lập đối với các dự án xin hưởng ưu đãi đặc biệt nhằm hạn chế rủi ro chính sách và bảo đảm tính minh bạch.

Theo ông Huy, các khái niệm như “chuyển đổi xanh”, “giảm phát thải”, “chuyển đổi số” trong Dự thảo hiện chưa được định nghĩa đầy đủ về mặt pháp lý, dẫn tới khó khăn trong việc xác định dự án đủ điều kiện nhận hỗ trợ. Việc thiếu tiêu chí đánh giá rõ ràng và cơ chế giám sát cũng làm tăng nguy cơ nguồn lực hỗ trợ bị phân tán hoặc sử dụng không đúng mục tiêu.

Ngoài ra, việc mở rộng các hình thức hỗ trợ đầu tư, dù cần thiết, có thể tạo áp lực lớn lên ngân sách nếu thiếu cơ chế kiểm soát chặt chẽ. Ông đề nghị bổ sung quy định yêu cầu dự án được hỗ trợ phải báo cáo kết quả và chịu kiểm toán định kỳ; đồng thời cần xác định nguồn lực tài chính riêng cho các chương trình hỗ trợ xanh – số, có thể từ Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ chuyển đổi số quốc gia hoặc các quỹ ngoài ngân sách.

Xoay quanh vấn đề này, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân, Đoàn ĐBQH TPHCM nhận định Điều 14 của Dự thảo đã xác lập hai công cụ chính sách quan trọng, đó là ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Tuy nhiên, bản chất của hai công cụ này cần được phân định rõ ràng hơn để tránh chồng chéo khi triển khai.

Theo bà Trân, ưu đãi đầu tư chủ yếu mang tính “giảm gánh nặng” như giảm thuế, miễn tiền thuê đất, trong khi hỗ trợ đầu tư thiên về “tăng năng lực” thông qua đào tạo nhân lực, hỗ trợ hạ tầng, R&D… Việc chưa tách bạch đầy đủ khiến nhiều địa phương dễ áp dụng sai hoặc trùng lặp chính sách.

Do đó, cần có giới hạn trần ưu đãi khi thực tế nhiều năm qua cho thấy, Việt Nam chứng kiến tình trạng “đua nhau” ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, dệt may, lắp ráp đơn giản. Điều này làm xói mòn nguồn thu ngân sách nhưng không tạo giá trị gia tăng tương xứng. Đại biểu đề xuất nên bổ sung quy định về ngưỡng tối đa đối với một số loại ưu đãi, đồng thời yêu cầu đánh giá tác động trước khi trao ưu đãi để bảo đảm kỷ luật tài khóa.

“Ưu đãi và hỗ trợ phải gắn với cam kết và kết quả thực hiện của nhà đầu tư; nếu không đạt yêu cầu, cơ quan nhà nước phải có quyền điều chỉnh hoặc thu hồi”, bà Trân nhấn mạnh.

Góp ý thêm cho Dự thảo, đại biểu Phan Thị Mỹ Dung, Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh cho rằng hệ thống ưu đãi đầu tư hiện nay của Việt Nam vẫn nặng về thuế và phí, trong khi xu hướng quốc tế đang nghiêng về các ưu đãi phi tài chính, đặc biệt cho lĩnh vực công nghệ cao.

Theo bà Dung, Việt Nam đang thiếu các ưu đãi kiểu mới như ưu tiên tiếp cận dữ liệu số, dữ liệu công, hay cơ chế sandbox cho mô hình kinh doanh sáng tạo. Những công cụ ưu đãi này phù hợp với chiến lược cạnh tranh trong các ngành bán dẫn, AI, công nghệ sinh học, chuyển đổi số…

Bà cũng lưu ý rằng cơ chế ưu đãi hiện nay chưa gắn với kết quả thực hiện, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp FDI báo lỗ kéo dài nhưng vẫn hưởng ưu đãi thuế, gây thất thoát lớn cho ngân sách và khó kiểm soát chuyển giá.

VCCI cho rằng nhiều quy định trong Dự thảo chưa phù hợp, dễ biến công cụ quản lý thành “gánh nặng” cho doanh nghiệp.
Dự thảo Luật Đầu tư sửa đổi cần có tiêu chí rõ ràng, minh bạch trong hỗ trợ đầu tư để tránh lạm dụng, trùng lặp và bảo đảm hiệu quả thực chất.

Theo đó, Dự thảo cần xác định rõ ưu đãi phải có chọn lọc, hỗ trợ phải thực chất. Doanh nghiệp chỉ được tiếp tục hưởng ưu đãi nếu đáp ứng các chỉ số như tỷ lệ nội địa hóa, chi R&D, số lao động chất lượng cao được đào tạo, mức tiêu thụ năng lượng sạch, hay sản phẩm công nghệ mới được thương mại hóa. Cùng với đó là cơ chế hậu kiểm bắt buộc và thu hồi ưu đãi nếu không đạt cam kết.

Yến Nhung