Kinh tế thế giới

Kinh tế thế giới

Giải pháp thu hẹp khoảng cách chuyển đổi năng lượng ở Đông Nam Á

Cẩm Anh 07/12/2025 14:19

Theo nhiều chuyên gia, Đông Nam Á cần sử dụng đa dạng các nguồn tài chính phát triển và quỹ từ thiện để thu hẹp khoảng cách chuyển đổi năng lượng.

img_9105.jpeg
Theo dữ liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế, nhu cầu điện của Đông Nam Á đang tăng nhanh gấp đôi mức trung bình toàn cầu. Ảnh: AP

Đông Nam Á vẫn đang đứng trước ngã rẽ chuyển đổi năng lượng. Theo số liệu của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), nhu cầu điện của khu vực này đang tăng nhanh gấp đôi mức trung bình toàn cầu, được thúc đẩy bởi sự phát triển của sản xuất, điện khí hóa và các trung tâm dữ liệu.

Nhưng việc đáp ứng nhu cầu đó bằng nguồn nhiên liệu nào vẫn còn là một vấn đề. Khu vực này nhận thức rõ lý do tại sao cần phải chuyển đổi khỏi nhiên liệu hóa thạch, bao gồm cả khí đốt tự nhiên.

Tuy nhiên, theo chuyên gia năng lượng Tim Daiss, việc thực hiện sự chuyển đổi đó đòi hỏi phải có kế hoạch, ý chí chính trị và nguồn tài chính chuyển đổi mà hiện vẫn còn thiếu hụt rất nhiều so với yêu cầu.

Một báo cáo mới được công bố của Sáng kiến Chính sách Khí hậu (CPI) có tiêu đề "Bức tranh Toàn cầu về Tài chính Chuyển đổi Năng lượng 2025" cho thấy tổng nguồn vốn tài chính chuyển đổi năng lượng trên toàn thế giới đạt khoảng 1,8 nghìn tỷ USD vào năm 2024.

Nhưng con số này chỉ bằng một phần ba trong số 6 nghìn tỷ USD cần thiết mỗi năm tính đến năm 2030 để đáp ứng các mục tiêu bền vững.

Khu vực Châu Á – Thái Thái Bình Dương có khoảng cách tài trợ lớn nhất, nhưng lại là một trong những khu vực có nhu cầu lớn nhất thế giới về tài chính năng lượng sạch. Khu vực này cần ít nhất từ 3 nghìn tỷ USD đến 3,4 nghìn tỷ USD hàng năm. Tuy nhiên, khu vực này chỉ nhận được chưa đến 400 tỷ USD vào năm 2024.

Làm trầm trọng thêm vấn đề là nguồn tài chính chuyển đổi, bao gồm các gói giảm phát thải mê-tan, các dự án hydrogen giai đoạn đầu và củng cố lưới điện, chỉ chiếm dưới 7% tổng dòng vốn. Đó là một dấu hiệu đáng báo động đối với các quốc gia vẫn còn phụ thuộc vào các dự án điện dựa trên nhiên liệu hóa thạch.

Báo cáo của CPI cảnh báo rằng Châu Á đang bước vào kỷ nguyên "thiếu hụt nghiêm trọng", nơi việc thiếu hụt tài chính chuyển đổi sẽ buộc các chính phủ phải quay trở lại sử dụng khí đốt và than đá để đảm bảo độ tin cậy. Bởi vì năng lượng tái tạo ở Châu Á vẫn phải đối mặt với nhiều trở ngại hơn so với các khu vực khác.

Ông Daiss chỉ ra, thách thức bao gồm chi phí tài chính cao, lưới điện yếu và quá trình cấp phép chậm chạp. Điển hình là sự phát triển điện mặt trời gần đây của Việt Nam đã gây bất ngờ cho thế giới, nhưng khả năng xử lý lượng điện tăng lên đó do lưới điện cũ kỹ và kém phát triển cũng gây ra cú sốc tương tự.

Tệ hơn nữa, các dự án điện chạy bằng khí đốt và than đá phát thải nhiều carbon dioxide và mê-tan vẫn là giải pháp dự phòng vì chúng dễ huy động vốn hơn, triển khai nhanh hơn và được hỗ trợ bởi cơ sở hạ tầng đã có sẵn.

Tóm lại, rất nhiều ngân hàng trong khu vực thà tài trợ cho các dự án dựa trên nhiên liệu hóa thạch vì điều đó dễ dàng hơn là hỗ trợ các sáng kiến năng lượng tái tạo và chuyển đổi khí hậu.

Các chính phủ có thể lấp đầy khoảng trống này, nhưng liệu họ có thể không? Vẫn còn sự thiếu quyết đoán và kém hiệu quả ở cấp chính phủ tại hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, điều này có thể được giải quyết nếu có đủ quyết tâm. Nhưng điều đó vẫn chưa xảy ra, ít nhất là chưa ở quy mô cần thiết.

“Đó không hoàn toàn là lỗi của họ. Trong nhiều năm, các nhà xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) lớn như Qatar, Australia và Hoa Kỳ đã thúc đẩy luận điệu sai lầm về biến đổi khí hậu rằng khí đốt là nhiên liệu cầu nối hay nhiên liệu chuyển đổi hoàn hảo sang năng lượng tái tạo”, chuyên gia này nhận định.

img_9106.jpeg
Tàu chở hàng đầu tiên trên thế giới chạy bằng khí đốt tự nhiên hóa lỏng đang neo đậu tại Cảng Jurong ở Singapore vào đầu năm 2022. Ảnh: Reuters

Khi được sử dụng trong lĩnh vực điện lực, khí đốt tạo ra lượng khí thải độc hại ít nhất bằng một nửa so với than đá, loại nhiên liệu hóa thạch cháy bẩn nhất thế giới.

Các chính phủ Đông Nam Á không chỉ tin vào luận điệu khí đốt sạch, họ đã cắt giảm hàng tỷ USD trong các thỏa thuận và hiện đang gặp khó khăn (ít nhất là về mặt bền vững).

Tăng thêm mức độ phức tạp, các nhà kinh doanh LNG, bao gồm cả ở Nhật Bản – nước nhập khẩu LNG lớn thứ hai thế giới và là nhà bán lại nhiên liệu này quan trọng, đã thúc đẩy mạnh mẽ việc tài trợ và xây dựng cơ sở hạ tầng LNG trên khắp Đông Nam Á để hấp thụ nguồn cung dư thừa không cần thiết.

Việc phát triển các dự án và nhà ga LNG cực kỳ tốn kém, và một khi chúng đi vào hoạt động, chủ sở hữu, nhà điều hành và chính phủ bị ràng buộc vào việc sử dụng trong hàng thập kỷ. Nếu không, chủ dự án sẽ phải chịu tổn thất tài chính đáng kể.

Hơn nữa, thương mại LNG đã trở thành một trong những lĩnh vực kinh doanh nhiên liệu hóa thạch sinh lợi nhất trên hành tinh. IEA ước tính các nhà xuất khẩu LNG toàn cầu đã kiếm được hơn 450 tỷ USD vào năm 2022, một mức kỷ lục. Theo một báo cáo của Reuters, lợi nhuận của QatarEnergy đã tăng 58% lên khoảng 42,5 tỷ USD trong cùng kỳ.

Các nhà sản xuất và xuất khẩu LNG lớn khác cũng có những năm bội thu. Những con số này cho thấy LNG không chỉ là nhiên liệu chuyển đổi, mà còn là một "con bò đẻ tiền".

Tuy nhiên, có nhiều lý do khác khiến khu vực này đang tụt hậu trong việc tài trợ cho quá trình chuyển đổi khí hậu. Một báo cáo của Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Vĩ mô ASEAN+3 (AMRO) có tiêu đề "Tài trợ cho Quá trình Chuyển đổi của Châu Á sang Tương lai Không Phát thải Ròng" cho biết khu vực này phải đối mặt với áp lực tài khóa cùng với những hạn chế về nợ sau đại dịch, khiến các thị trường mới nổi đặc biệt dễ bị tổn thương.

Các chính phủ thiếu không gian cho các bảo lãnh công quy mô lớn, nghĩa là việc nâng cấp lưới điện, bỏ điện than,... đang tiến triển chậm.

Báo cáo cảnh báo rõ ràng rằng nếu không có dòng vốn lớn đổ vào, các nền kinh tế ASEAN+3 sẽ vẫn bị khóa chặt vào sự phụ thuộc vào LNG trong suốt những năm 2030 do nhu cầu về độ tin cậy. AMRO ước tính khu vực ASEAN+3 (ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc) cần 450 tỷ USD đến 550 tỷ USD mỗi năm trong lĩnh vực tài chính xanh và chuyển đổi để phù hợp với các cam kết khí hậu năm 2030.

Tuy nhiên, có một lối thoát: tài chính hỗn hợp. Tài chính hỗn hợp đơn giản là việc sử dụng cả nguồn vốn phát triển và nguồn vốn từ thiện để huy động vốn tư nhân vào các thị trường mới nổi.

Một báo cáo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) vào tháng 1 ước tính Châu Á đang nắm giữ cơ hội tài chính hỗn hợp trị giá 2 nghìn tỷ USD, nhưng chỉ đạt được thỏa thuận 22 tỷ USD vào năm 2024.

Hầu hết các khuôn khổ vẫn đang ở mức thí điểm, bị phân mảnh giữa các ngân hàng phát triển đa phương, ngân hàng phát triển quốc gia và một số cấu trúc tư nhân. Báo cáo của WEF nhấn mạnh rằng tài chính hỗn hợp là cơ chế duy nhất có khả năng giảm thiểu rủi ro cho các công nghệ khí hậu giai đoạn đầu trong khu vực, bao gồm hydrogen xanh, điện gió ngoài khơi ở các thị trường mới nổi, các dự án thí điểm thu hồi carbon và lưu trữ năng lượng dài hạn.

Báo cáo lập luận rằng việc không thể mở rộng quy mô tài chính hỗn hợp là lý do chính khiến đổi mới khí hậu giai đoạn đầu đang gặp khó khăn trên khắp Châu Á.

Cẩm Anh