Đầu tư
Áp lực giải ngân vốn đầu tư công: Cần đưa VLXD thông thường về đúng với bản chất vốn có
Cát, đá, sỏi và đất san lấp… chỉ là VLXD thông thường, nhưng vì sao lại khan hiếm? Đây là vấn đề mà các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải nhìn nhận lại để đưa chúng về với đúng bản chất vốn có.
Đó là chia sẻ của các doanh nghiệp và chuyên gia trước những biến động về giá, khan hiếm nguồn cung vật liệu xây dựng thông thường (VLXD) phục vụ cho các dự án đầu tư công trước áp lực chặng “nước rút”.
Tính đến thời điểm hiện tại, thời gian giải ngân vốn đầu tư công năm 2025 chỉ còn hơn một tháng (30/01/2025), song, nhiều công trình, dự án hạ tầng giao thông vẫn còn ngổn ngang khối lượng công việc do thiếu VLXD. Bên cạnh đó, có những dự án chỉ còn gần 20% khối lượng công việc để kết thúc dự án. Sự khan hiếm nguồn cung VLXD đang là rào cản đường đua “cán đích”, khiến cả chủ đầu tư và nhà thầu đứng ngồi không yên.
Đáng nói, bên cạnh những áp lực về tiến độ thi công, các nhà thầu lại tiếp tục nhận thêm cú sốc khi nguồn VLXD đầu vào tăng “phi mã”.

Giá vật liệu xây dựng thông thường tăng “phi mã”
Theo ông Nguyễn Văn Hoà - Tổng giám đốc Công ty TNHH Nhật Tân, hiện dự án mà doanh nghiệp đang triển khai đã đạt khoảng 80% khối lượng; 20% khối lượng còn lại hiện doanh nghiệp đang phải đi vay lãi “ngày” để mua vật liệu nhưng nguồn cung cũng khá nhỏ giọt. Việc thiếu nguồn đá 0.4 sẽ dẫn đến khả năng cao là không thể giải ngân đúng tiến độ kế hoạch giao (31/12/2025).
“Hiện giá cát, đá… đang tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba so với thời điểm đầu năm 2025 và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại. Đây là một cú sốc rất lớn đối với bản thân doanh nghiệp, đặc biệt là những nhà thầu thi công dự án ở giai đoạn chạy “nước rút”. Và một khi kế hoạch tài chính đã được phê duyệt theo hợp đồng “trọn gói” thì chủ đầu tư cũng khó lòng mà chia sẻ, mặc dù vẫn biết là giá VLXD tăng “phi mã” và việc doanh nghiệp than phiền là hoàn toàn có cơ sở”, ông Hoà chia sẻ.
Đặt vấn đề liên quan tới các giải pháp nhằm tăng nguồn cung VLXD, ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội BĐS TP HCM, cho rằng để tháo gỡ nút thắt thì các cơ quan chức năng cần phải xem xét đến yếu tố vĩ mô. Bởi, khi nguồn cung trong nước trong nước không đáp ứng đủ thì phải có giải pháp nhập khẩu. Song, nhập khẩu như thế nào cũng cần phải đánh giá một cách kỹ lưỡng và có chọn lọc từ phía các cơ quan chức năng, đặc biệt là Bộ Công Thương. Đây là vấn đề mà HoREA đã từng có văn bản gửi cho Thủ tướng Chính phủ về việc đề xuất cần bổ sung thêm nguồn cát nhập khẩu từ Campuchia để phục vụ thi công các công trình giao thông trọng điểm quốc gia tại TP HCM và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
“Với nhu cầu xây dựng cao hiện nay rất cần bổ sung thêm nguồn cát nhập khẩu từ Campuchia đi đôi với khai thác nguồn cát sông Cửu Long một cách hợp lý. Và khi cát nhập khẩu về, trước hết sẽ phục vụ các công trình trọng điểm quốc gia trên địa bàn TP HCM và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, như: Vành đai 3, đường Vành đai 4 TP HCM, cao tốc TP HCM - Mộc Bài, mở rộng cao tốc Cần Thơ - Cà Mau, cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, 3 tuyến cao tốc trục ngang ở Đồng bằng sông Cửu Long như Hồng Ngự - Trà Vinh, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu”, ông Châu nêu.
Tuy nhiên, để tránh tình trạng đẩy giá cát lên cao, ông Châu đề nghị nên giao một đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng có chức năng làm kinh tế ở phía Nam làm đầu mối để mua cát với số lượng lớn, ổn định, đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng và giá cả hợp lý.
Đánh giá về nguyên nhân chậm giải ngân vốn đầu tư công trước áp lực chậm GPMB, khan hiếm nguồn cung VLXD, ông Phạm Thiện Nghĩa, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, cho rằng nguyên nhân dẫn đến việc giải ngân chậm, thấp là không mới. Tuy nhiên, hiện nay bước giải phóng mặt bằng giai đoạn này đã được cải thiện vì giá đất trong những năm qua đã ổn định, chính sách đền bù đã ở mức khá cao nên hầu hết người dân ít phản ánh vấn đề về giá đền bù. Ngoại trừ những trường hợp vướng về tranh chấp, pháp lý một số khu đất (nếu có).

Cần làm rõ nguyên nhân và phân định trách nhiệm
Cũng theo ông Nghĩa, đối với vấn đề khan hiếm nguồn cung VLXD sẽ không quá khó nếu chúng ta quyết tâm, quyết liệt thực hiện. Nếu trước đây thiếu cát là do thủ tục khai thác chậm, nhiều khâu đánh giá … thì chúng ta đã có giải pháp là mở nguồn cát nhập. Và nay, nếu thiếu đá thì một mặt chúng ta đẩy nhanh, tăng khai thác, một mặt mở thêm nguồn cung thì chắc chắn sẽ ổn.
“Tạm thời chúng ta chưa nói về nguyên nhân, nhưng nhìn nhận ở góc độ khách quan thì đây là dạng đầu cơ của chủ mỏ VLXD. Tăng để bù, gây áp lực, chứ thực ra trong hồ sơ đấu thầu thì chủ thầu đã chứng minh năng lực, nguồn VLXD đã có từ đầu, đảm bảo đủ để phục vụ dự án. Do đó, nếu thực sự vướng thì có chăng đó là sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh... Song, nếu thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng, cùng nhau vào cuộc, quyết tâm cao, vướng đâu gỡ đó thì chắc chắn sẽ thông”, ông Nghĩa nhấn mạnh.

Đánh giá về những bất cập nguồn cung VLXD, TS Phạm Viết Thuận - Viện trưởng Viện Kinh tế Tài nguyên và Môi trường TP HCM, cho rằng cát, đá, sỏi, đất san lấp… chỉ là VLXD thông thường, nhưng vì sao lại khan hiếm? Có hay không câu chuyện đầu cơ, thổi giá? Đây là vấn đề mà các cơ quan quản lý Nhà nước cần phải nhìn nhận lại để đưa VLXD thông thường về với đúng bản chất vốn có của nó.
“Tài nguyên khoáng sản nói chung, VLXD thông thường nói riêng đều tài tài sản quốc gia. Và nó cần được khai thác sử dụng bền vững, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả, Luật Khoáng sản đã xác định công tác quản lý tài nguyên và trữ lượng khoáng sản đặt ra từ giai đoạn khảo sát, thăm dò cho đến khai thác. Do đó, khi nhu cầu xây dựng của xã hội ngày càng tằng cao thì việc chúng ta phải nghiên cứu làm sao cho phù hợp, hiệu quả nhưng tuyệt đối không để thiếu, khan hiếm, ngược lại cũng không để thừa… nếu không sẽ tác dụng ngược. Việc giao quyền cho các địa phương quản lý và khai thác trên cơ sở kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo phục vụ cho nhu cầu thực tế để phát triển kinh tế - xã hội là phù hợp trong bối cảnh hiện nay”, ông Thuận nêu.
Cũng theo ông Thuận, theo quy định của pháp luật về khoáng sản, công tác quản lý tài nguyên khoáng sản được thực hiện xuyên suốt từ quy hoạch đến quản lý cấp phép các hoạt động thăm dò và khai thác mỏ. Song, điều quan trọng nhất của công tác quản lý tài nguyên khoáng sản là quản lý hoạt động khai thác mỏ, quản lý lượng đầu ra của quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên.
Vì vậy, ông Thuận cho rằng, đối với hoạt động khai thác, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện công tác thẩm định và cấp giấy phép khai thác khoáng sản; tăng cường công tác quản lý các hoạt động khai thác mỏ theo các nội dung trong giấy phép khai thác; kiểm soát chặt chẽ sản lượng khai thác và tiêu thụ khoáng sản thực tế ở mỏ; nghiên cứu cho phép doanh nghiệp được chủ động trong thăm dò bổ sung, thăm dò nâng cấp trữ lượng; điều tiết công suất khai thác trong giới hạn phù hợp để đáp ứng nhu cầu thị trường trên tinh thần hợp lý, tiết kiệm, bền vững và bảo vệ môi trường.