Tâm điểm
Quản trị nguồn vốn con người
Kỷ nguyên mới 21 chứng kiến những thành tựu kinh tế phát triển mạnh mẽ nhờ sự phát triển khoa học công nghệ của thời đại công nghệ số và đặc biệt là nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế vĩ mô nghiên cứu các chỉ số của bức tranh tổng thể nền kinh tế như GDP, lạm phát và thất nghiệp… để đo lường sức khỏe của toàn bộ nền kinh tế, hướng dẫn chính phủ thiết lập các chính sách hiệu quả (tài khoá/tiền tệ) nhằm ổn định, tăng trưởng và quản lý chu kỳ kinh doanh (suy thoái/bùng nổ), đồng thời giúp các doanh nghiệp và nhà đầu tư dự báo hiệu quả hoạt động và đưa ra các quyết định chiến lược dựa trên các xu hướng phát triển.
Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế, bức tranh kinh tế vĩ mô chỉ có ý nghĩa định hướng khái quát chung về nền kinh tế. Ví dụ, mặc dù GDP được xem là chỉ số vĩ mô quan trọng nhất vì nó đo lường tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ cuối cùng tạo ra, phản ánh quy mô, sức khỏe và tốc độ tăng trưởng kinh tế nhưng GDP vẫn có một số hạn chế hạn chế cần lưu ý trong quá trình hoạch định chính sách và quản lý kinh doanh.
Thứ nhất, tăng trưởng GDP thường cao ở các nền kinh tế đang phát triển dựa vào các siêu dự án phát triển hạ tầng và bất động sản, hoặc dựa vào chiến lược xuất khẩu và các dự án FDI với sản phẩm không trực tiếp phục vụ đời sống người dân trong nước… và hơn nữa, GDP vẫn tăng ngay cả khi các dự án kém chất lượng,không đồng bộ, thiếu kết nối, hoạt động không hết công suất, lãng phí, chậm tiến độ hoặc thiếu kế hoạch duy tu bảo dưỡng, thậm chí khi phá bỏ.

Thứ hai, với việc phân tích các chỉ số, kinh tế vĩ mô chỉ đề cập đến “cái gì" (what) của nền kinh tế. Hay nói cách khác là kinh tế vĩ mô không đề cập đến các hệ thống và quy trình quản lý các nguồn lực quốc gia để đạt các chỉ số vĩ mô của nền kinh tế. Chính vì vậy, thực tế đòi hỏi cần có sự quản trị kinh tế tốt để tạo ra một môi trường ổn định, thiết yếu cho sự ổn định và tăng trưởng kinh tế vĩ mô. Quản trị về bản chất là "cách thức" (how) để quản lý nền kinh tế.
Việt Nam đang tích cực chuẩn bị bước vào Kế hoạch 5 năm 2026-2030 hướng tới mục tiêu đến năm 2030 trở thành quốc gia số ổn định, thịnh vượng, và đất nước phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập cao. Trong quá trình đó, để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân trên 10%/năm, theo các chuyên gia kinh tế, mô hình quản trị kinh tế bền vững năm nguồn lực cơ bản phát triển kinh tế cần được áp dụng một cách nhất quán và xuyên suốt trong chỉ đạo, thiết lập, điều hành và giám sát hiệu quả kế hoạch quốc gia. Sự quản trị đồng bộ hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài nguyên, sản phẩm, xã hội và đặc biệt là con người sẽ đóng vai trò quyết định thành công của Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030
Thực hiện chủ trương lấy con người là trung tâm và thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, trong quản trị kinh tế bền vững, chúng ta đã chú trọng đặc biệt đến phát triển nguồn lực con người. Chiến lược dài hạn tập trung vào giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ. Mới đây, Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 217/2025/QH15 về miễn, hỗ trợ học phí đối với trẻ em mầm non, học sinh phổ thông, người học chương trình giáo dục phổ thông trong cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Tuy nhiên, có lẽ trong cuộc sống con người, thời gian là giành nhiều nhất cho việc lao động (trung bình trên dưới 40 năm) do đó hai chữ “lao động” có ý nghĩa quyết định số phận đời người. Trong giai đoạn kháng chiến và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa (năm 1951), chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đổi tên Đảng là “Đảng Lao động Việt Nam”. Việc đổi tên này phù hợp với tư tưởng đại đoàn kết và tầm quan trọng của lực lượng lao động mà Bác luôn theo đuổi. Chính vì vậy, hiện nay trong lĩnh vực xây dựng và phát triển nguồn lực con người, việc quản trị công ăn việc làm cho người lao động đóng vai trò trung tâm vì nó không chỉ là nền tảng tăng trưởng GDP bền vững mà còn đem lại hạnh phúc và sự tiến hóa cho con người.
Trên thế giới, nhiều lãnh đạo kinh tế hàng đầu cũng đã khẳng định quan trọng vai trò của công ăn việc làm bên cạnh các nguồn lực khác đối với sự hạnh phúc, phồn thịnh và bền vững của xã hội. Nguyên Thủ tướng Anh, ông David Cameron cho rằng: "Đã đến lúc chúng ta thừa nhận rằng có nhiều thứ trong cuộc sống hơn là chuyện tiền bạc, và đã đến lúc chúng ta phải tập trung không chỉ vào GDP mà còn vào cả GWB (General Wellbeing - hạnh phúc nói chung)". Giáo sư Paul Krugman, người đoạt giải thưởng Nobel kinh tế năm 2008 lập luận rằng: “ Yếu tố cốt lõi của hạnh phúc là có công ăn việc làm. Ngoài việc tạo thu nhập ổn định, có công ăn việc làm còn giúp một người tự tin và thỏa mãn lòng tự trọng. Vì thế, cần phải tạo ra nhiều công ăn việc làm nếu muốn giúp công chúng hạnh phúc hơn”.
Với dân số khoảng 100 triệu, Việt Nam sở hữu lực lượng lao động Việt Nam có quy mô lớn, trên 52 triệu người (từ 15 tuổi trở lên) tính đến năm 2024-2025. Thị trường lao động đang có nhiều tín hiệu tích cực như số người có việc làm tăng, thu nhập bình quân cải thiện (Thu nhập bình quân tháng của người lao động tăng từ 7,5 triệu đồng trong Quý II/2024 lên 8,2 triệu đồng trong Quý II/2025, tăng tương ứng 10,7%). Cơ cấu việc làm dịch chuyển sang dịch vụ-công nghiệp, năng suất lao động tăng. Tuy nhiên, điều kiện làm việc có nhiều hạn chế, công ăn việc làm thiếu do các ngành công nghiệp sản xuất còn nhỏ lẻ, mức lương thấp (mỗi người đi làm chưa nuôi được một người), chế độ đãi ngộ không cạnh tranh, thiếu động lực, môi trường làm việc chưa được đảm bảo an toàn vệ sinh lao động và bất cập trong hệ thống đào tạo, tuyển dụng, thang bảng lương, khiến người lao động khó có đời sống vật chất tốt, không tương xứng với công sức cống hiến, dẫn đến giảm năng suất và không thu hút được nhân tài. Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, thiên tai và đặc biệt là khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, tầng lớp xã hội còn lớn và tụt hậu so với các nước trong khu vực. Đồng thời, công nghệ số và AI dự kiến sẽ tự động hóa nhiều ngành nghề, đảo lộn các mô hình tăng trưởng và chiến lược phát triển truyền thống, phá vỡ mối liên hệ giữa tăng trưởng tiền lương và năng suất, đồng thời gia tăng tình trạng thất nghiệp và bất bình đẳng…
Tất cả các rủi ro thực tế đó đòi hỏi sự cần thiết đưa nền tảng quản trị kinh tế, đặc biệt là quản trị nguồn lực con người và xã hội (thể chế, pháp lý…) trong quá khứ vào tương lai để thích ứng với thực tế kinh tế xã hội mới, tạo nhiều công ăn việc làm với điều kiện làm việc tốt hơn để “không một ai bị để lại phía sau” và phòng ngừa cuộc khủng hoảng toàn cầu tiếp theo…
Ngoài ra, trong nền kinh thế thị trường ngày càng được hoàn thiện, cần nhận thức quản trị kinh tế bền vững không chỉ là thiết lập khuôn khổ các quy tắc, quy trình và thể chế để quản lý một cách bảo thủ mà còn giành không gian cho sự kiến tạo nhằm chủ động thiết lập bầu không khí tích cực, cạnh tranh lành mạnh, hướng dẫn và đưa ra các quyết định phục vụ cho chiến lược và mục tiêu quốc gia cũng như được giám sát bởi các cấu trúc quản trị. Hơn nữa, nó còn phải thiết lập một khuôn khổ linh hoạt cho phép và định hướng các quy trình sáng tạo, thay vì chỉ áp đặt các quy tắc cứng nhắc. Có thể nói, quản trị là sự thiết lập các khuôn khổ pháp định, thể chế rõ ràng, sự thống nhất chiến lược và trách nhiệm giải trình, đồng thời cho phép đổi mới trong những ranh giới đó, đảm bảo rằng các ý tưởng sáng tạo được thực hiện để hướng tới quản trị nền kinh tế hiệu quả và từng bước nâng cao điều kiện và công ăn việc làm của người dân, đem lại sự hạnh phúc và phồn vinh một cách bền vững cho dân tộc.