Kinh tế

Kinh tế

ĐẦU TƯ CÔNG: Từ áp lực giải ngân đến bài toán hiệu quả thực chất

Đình Đại - Minh Quân 23/12/2025 16:05

Đầu tư công không chỉ đơn thuần là một công cụ để kích thích tổng cầu trong ngắn hạn mà quan trọng hơn, đây chính là đòn bẩy để cải thiện năng suất và năng lực cạnh tranh dài hạn cho quốc gia.

Phát biểu tham luận tại Tọa đảm “Đầu tư công - gỡ nút thắt để bứt phá tăng trưởng năm 2026”, do Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp khoáng sản TP HCM tổ chức chiều ngày 23/12, tại TP HCM, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright đề xuất thay đổi tư duy quản lý đầu tư công để thúc đẩy tăng trưởng.

toancanh2.jpg
Toàn cảnh Tọa đảm “Đầu tư công - gỡ nút thắt để bứt phá tăng trưởng năm 2026”.

TS Đỗ Thiên Anh Tuấn nhấn mạnh, đầu tư công không chỉ đơn thuần là một công cụ để kích thích tổng cầu trong ngắn hạn mà quan trọng hơn, đây chính là đòn bẩy để cải thiện năng suất và năng lực cạnh tranh dài hạn cho quốc gia.

Theo một nghiên cứu của ông cho giai đoạn 2010 – 2024, cứ mỗi 1% GDP vốn đầu tư công tăng thêm sẽ đóng góp 0,2% vào tăng trưởng GDP trong năm đầu tiên và tạo ra hiệu ứng lan tỏa lên tới 0,85% trong bốn năm tiếp theo. Những con số này cho thấy sức mạnh lan tỏa của đầu tư công là vô cùng lớn, đóng vai trò dẫn dắt cho toàn bộ dòng chảy kinh tế.

Hiện nay, tổng vốn đầu tư toàn xã hội đang chiếm khoảng 33% GDP, trong đó vốn đầu tư công đóng góp khoảng 10% GDP, tương đương với 28% cơ cấu tổng vốn đầu tư xã hội. Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng kinh tế ít nhất 10% từ năm 2026 trở đi, ông Tuấn cho rằng sự phụ thuộc vào tăng trưởng đầu tư công là rất lớn.

1 TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright
TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright phát biểu tại Tọa đàm

"Trong một kịch bản giả định cho năm 2026, nếu GDP thực tăng 10% và lạm phát ở mức 4%, quy mô nền kinh tế có thể đạt hơn 14 triệu tỷ đồng theo giá hiện hành. Khi đó, theo kế hoạch của Chính phủ nhằm đưa tổng vốn đầu tư xã hội lên mức 40% GDP, chúng ta sẽ cần khoảng 5,8 triệu tỷ đồng, với phần vốn đầu tư công tương đương khoảng 1,65 triệu tỷ đồng", TS Đỗ Thiên Anh Tuấn chia sẻ.

Tuy nhiên, ông cho rằng, bài toán thực sự không nằm ở quy mô vốn mà nằm ở hiệu quả sử dụng vốn, được đo lường qua hệ số ICOR (chỉ số cho biết cần bao nhiêu đồng vốn để tạo ra một đồng sản lượng tăng thêm, số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp). Ông Tuấn chỉ ra rằng hệ số ICOR bình quân của Việt Nam giai đoạn sau đại dịch là 5,85, một mức khá cao phản ánh hiệu quả sử dụng vốn còn thấp.

Đồng thời, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cũng đưa ra một cảnh báo mạnh mẽ rằng nếu hiệu quả sử dụng vốn vẫn giữ ở mức 5,85, chúng ta sẽ phải đẩy quy mô đầu tư xã hội lên tới hơn 47% GDP mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 10%. Đây là một áp lực rất lớn đối với nền kinh tế và nếu chỉ cố tăng quy mô để bù đắp sự kém hiệu quả, nền kinh tế sẽ giống như một “lâu đài cát” dễ bị ảnh hưởng lớn bởi những cơn sóng biến động vĩ mô.

Thay vào đó, một kịch bản khả thi hơn là duy trì mức đầu tư xã hội khoảng 40% GDP nhưng phải quyết liệt cải thiện hiệu quả, đưa hệ số ICOR xuống mức dưới 5. Thực tế trong 15 năm qua, hệ số ICOR của Việt Nam chưa bao giờ xuống dưới mức 4 và hiện vẫn đang ở mức hơn 5,7 mặc dù đã có những tín hiệu giảm tích cực từ năm 2023.

Đáng lo ngại hơn, khu vực kinh tế nhà nước có hệ số ICOR lên tới 15, nghĩa là phải bỏ ra 15 đồng vốn mới tạo ra được 1 đồng sản lượng, cao gấp ba lần so với khu vực tư nhân hay khu vực FDI vốn chỉ ở mức 5. Điều này hàm ý rằng Việt Nam cần phải phân bổ lại nguồn lực một cách hiệu quả hơn để đạt tốc độ tăng trưởng cao mà không gây bất ổn vĩ mô. Nhìn vào các nước công nghiệp hóa thành công trước đây, hệ số ICOR của họ chỉ nằm ở mức từ 2 đến 3, điều này cho thấy chúng ta vẫn còn một không gian rất lớn để cải thiện hiệu quả đầu tư.

Từ phải qua, nhà báo Phạm Hùng - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch VCCI, ông Nguyễn Văn Hòa – Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, bà Nguyễn Ngọc Thúy - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP HCM, ông Phan Tấn Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp khoáng sản TP HCM, Chủ tịch KSB
Từ phải qua, nhà báo Phạm Hùng - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch VCCI, ông Nguyễn Văn Hòa – Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, bà Nguyễn Ngọc Thúy - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP HCM, ông Phan Tấn Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp khoáng sản TP HCM, Chủ tịch KSB

Về tình hình thực tiễn, tiến độ giải ngân trong năm 2025 đã ghi nhận những diễn biến đáng chú ý khi xuất phát điểm chậm vào tháng 1 nhưng bắt đầu tăng tốc vượt cùng kỳ từ quý 2 trở đi. Tuy nhiên, một nút thắt bất ngờ đã xuất hiện từ tháng 7 khi tiến độ giải ngân có dấu hiệu chững lại đáng kể.

TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng, đây là hệ quả mang tính thời điểm của việc sáp nhập và hợp nhất các đơn vị hành chính tại các tỉnh thành, tạo ra những độ trễ nhất định trong việc vận hành bộ máy. Tính đến cuối tháng 12/2025, tỷ lệ giải ngân mới chỉ đạt khoảng 66% so với số vốn Thủ tướng giao, cho thấy những thách thức mang tính cơ cấu vẫn đang hiện hữu.

Để tháo gỡ khó khăn, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn đã tóm lược 12 nút thắt điển hình của đầu tư công hiện nay, bắt đầu từ sự phân mảnh về chủ thể và trách nhiệm thực thi cho đến những trở ngại kinh niên trong giải phóng mặt bằng và tái định cư. Ông đánh giá cao mô hình thí điểm của TP HCM khi tách dự án giải phóng mặt bằng thành một dự án thành phần độc lập, giúp tăng tính chủ động và trách nhiệm cho các chủ đầu tư.

Bên cạnh đó, sự thiếu đồng bộ trong hạ tầng kỹ thuật như điện, nước, viễn thông và việc thiếu nhất quán trong chia sẻ lợi ích, chi phí giữa các địa phương tại các dự án liên vùng cũng làm chậm tiến độ đáng kể. Những vấn đề về năng lực nhà thầu, quản lý danh mục đầu tư, yếu tố mùa vụ thiên tai và cả sự thiếu vắng cơ chế thu hồi giá trị đất từ các dự án công cũng là những rào cản cần được xử lý.

toancanh3.jpg
Tọa đàm thu hút đông đảo doanh nghiệp tham dự.

Dựa trên khung quản lý đầu tư công PIMA của IMF, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn đánh giá chất lượng của các trụ cột lập kế hoạch, phân bổ và thực hiện tại Việt Nam hiện hầu hết chỉ ở mức trung bình yếu.

Để chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới đến năm 2026, ông đề xuất một loạt giải pháp trọng tâm, bắt đầu bằng việc nâng cao chất lượng chuẩn bị dự án ngay từ đầu để giảm độ trễ hành chính. Kế hoạch vốn cần được điều hành linh hoạt, cho phép tái phân bổ vốn từ các dự án chậm tiến độ sang các dự án có hiệu quả và tốc độ triển khai tốt. Đồng thời, trách nhiệm và năng lực của các chủ đầu tư, ban quản lý dự án phải được nâng cao gắn liền với việc chủ động tháo gỡ các vướng mắc về đất đai và nguồn cung vật liệu xây dựng.

Một kiến nghị mà TS Đỗ Thiên Anh Tuấn nhấn mạnh chính là việc chuyển trọng tâm quản lý từ ưu tiên tỷ lệ giải ngân sang đánh giá hiệu quả trong suốt vòng đời của dự án. Thay vì chỉ nhìn vào các con số giải ngân hàng năm như một chỉ số KPI duy nhất, các cơ quan quản lý cần chú trọng hơn vào giá trị hiện tại ròng (NPV) về mặt kinh tế của dự án, đảm bảo rằng các quyết định đầu tư dựa trên tính toán khoa học thay vì nhận định cảm tính.

Ông cũng kêu gọi sự dứt khoát trong công tác giải phóng mặt bằng, bởi chi phí cơ hội của sự chậm trễ thường lớn hơn rất nhiều so với những khoản chênh lệch bồi thường nhỏ mà chúng ta vẫn thường sa đà vào đàm phán.

Cuối cùng, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng cần phải tăng cường cơ chế điều phối liên ngành, liên vùng để tạo ra các “mạng lưới dự án” có sức cộng hưởng lớn. Việc củng cố kỷ luật ngân sách, tích hợp chi phí vận hành vào quyết định đầu tư và tăng cường năng lực quản lý rủi ro tài khóa là những bước đi không thể thiếu để đảm bảo tính bền vững.

"Đặc biệt, khâu đánh giá và kiểm toán sau khi dự án hoàn thành vốn đang là điểm yếu nhất cần được thiết lập chặt chẽ hơn để rút kinh nghiệm cho các chu kỳ đầu tư tiếp theo. Với những cải cách quyết liệt và thay đổi tư duy quản lý theo hướng thực chất, đầu tư công hoàn toàn có thể trở thành bệ phóng vững chắc đưa kinh tế Việt Nam bứt phá trong giai đoạn tới", TS Đỗ Thiên Anh Tuấn nhấn mạnh.

Đình Đại - Minh Quân