Kinh tế
ĐẦU TƯ CÔNG: Gỡ nút thắt để bứt phá tăng trưởng năm 2026
Chiều ngày 23/12, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp phối hợp với Hiệp hội Công nghiệp khoáng sản TP HCM tổ chức Tọa đàm “Đầu tư công: Gỡ nút thắt để bứt phá tăng trưởng năm 2026”.

Tọa đàm có sự tham dự của ông Nguyễn Văn Hòa – Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ; ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch VCCI; ông Nguyễn Thế Minh - Phó Cục trưởng Cục Kinh tế - Quản lý đầu tư xây dựng - Bộ Xây dựng; bà Nguyễn Ngọc Thúy - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP HCM; ông Đậu Anh Tuấn - Ủy viên Ban thường trực, Phó Tổng Thư ký kiêm Trưởng ban pháp chế VCCI; ông Trần Ngọc Liêm - Giám đốc VCCI chi nhánh Khu vực TP HCM; ông Dương Minh Châu - Phó Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Lâm Đồng; ông Diệp Tuấn - Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án Mỹ Thuận (Bộ Xây dựng); TS Phạm Văn Thuận - Viện trưởng Viện Kinh tế Tài nguyên và Môi trường TP HCM; TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright; ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP HCM; ông Nguyễn Văn Nhật - Tổng Thư ký Hiệp hội Công nghiệp Khoáng sản TP HCM; ông Hà Huy Cường - Phó Tổng Giám đốc Nam Á Bank; ông Lâm Hiện Đạt - Phó TGĐ CTCP Xi măng Vicem Hà Tiên, kiêm Giám đốc Nhà máy Xi măng Kiên Lương.
Về phía Ban tổ chức có sự tham dự của Nhà báo Phạm Hùng - Phó Tổng Biên tập Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp; ông Phan Tấn Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp khoáng sản TP HCM, Chủ tịch KSB; ông Võ Minh Đức – Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Khoáng sản TP HCM, Phó Chủ tịch Hiệp hội vật liệu xây dựng Việt Nam, cùng sự tham dự của lãnh đạo các sở, ngành, lãnh đạo các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp các tỉnh, thành phía Nam.
Trụ cột then chốt cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2026-2030
Phát biểu khai mạc, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành cho biết, chúng ta đang ở những ngày cuối cùng của năm 2025 - một năm ghi nhận nhiều nỗ lực trong điều hành phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là việc ban hành và triển khai những chủ trương, quyết sách có tầm nhìn dài hạn của Đảng và Nhà nước, nhằm mở ra không gian phát triển mới cho nền kinh tế, hướng tới mục tiêu trở thành quốc gia phát triển vào năm 2045.

Cũng theo Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành, trong giai đoạn phát triển mới, đầu tư công không chỉ là công cụ kích cầu hay thước đo ở tỷ lệ giải ngân, mà cần được nhìn nhận như một đòn bẩy nâng cao năng suất tổng hợp của nền kinh tế. Mỗi dự án đầu tư công, nếu được thiết kế và triển khai hiệu quả, phải góp phần giảm chi phí logistics, chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp, mở rộng không gian phát triển và tăng cường kết nối vùng. Qua đó, đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân, thúc đẩy đổi mới công nghệ và tổ chức sản xuất. Đây chính là nền tảng để định hình chất lượng tăng trưởng nhanh nhưng bền vững cho giai đoạn 2026 - 2030.
Từ thực tiễn triển khai đầu tư công giai đoạn 2021 - 2025, có thể nhận diện rõ một số nút thắt mang tính hệ thống. Đó là những vướng mắc không chỉ xuất hiện ở một vài dự án hay địa phương riêng lẻ, mà lặp đi lặp lại ở nhiều cấp, nhiều ngành, phản ánh những hạn chế trong thiết kế thể chế, cơ chế phối hợp và tổ chức thực thi.
“Các nút thắt này khiến nhiều dự án chậm tiến độ, đội chi phí, làm giảm hiệu quả lan tỏa của đầu tư công đối với nền kinh tế. Nếu không được tháo gỡ căn cơ, những hạn chế này sẽ tiếp tục tái diễn trong giai đoạn 2026 - 2030, ngay cả khi quy mô vốn đầu tư công được mở rộng mạnh mẽ”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành chia sẻ.
Trong số đó, điểm nghẽn về nguồn cung và giá vật liệu xây dựng - đặc biệt là cát, đá, vật liệu san lấp - đang là vấn đề nổi lên rõ nét, tác động trực tiếp đến tiến độ và chi phí của nhiều dự án hạ tầng trọng điểm. Các vướng mắc về thủ tục cấp phép mỏ, cơ chế liên kết vùng, điều chỉnh giá và khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp cung ứng vật liệu vẫn chưa được giải quyết một cách đồng bộ và hiệu quả.
“Năm 2026 đang ở phía trước với cả thách thức và cơ hội. Đầu tư công, nếu được tháo gỡ đúng các nút thắt và đặt đúng vai trò, sẽ không chỉ là động lực tăng trưởng trong ngắn hạn, mà còn là nền móng cho một mô hình tăng trưởng chất lượng cao của Việt Nam trong nhiều năm tới”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành nhấn mạnh thêm.
Vật liệu xây dựng đóng vai trò quan trọng trong các dự án đầu tư công
Phát biểu tại Tọa đàm, bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP HCM cho biết, bước sang giai đoạn 2026-2030, Thành phố tiếp tục triển khai nhiều dự án quy mô lớn, gồm Vành đai 4, cao tốc TP HCM – Mộc Bài, mở rộng các tuyến TP HCM – Long Thành - Dầu Giây, TP HCM – Trung Lương và tuyến Metro số 2. Điều này cho thấy vai trò đặc biệt quan trọng, mang tính chiến lược của đầu tư công trong việc tạo động lực phát triển cho giai đoạn tới.

“Để các dự án đầu tư công đạt hiệu quả, cần sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành, các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương, các chủ đầu tư, nhà thầu và cộng đồng doanh nghiệp. Trong đó, Sở Nông nghiệp và Môi trường được giao nhiệm vụ tham mưu công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đồng thời phối hợp bảo đảm nguồn vật liệu xây dựng, góp phần phục vụ tiến độ các dự án trọng điểm của thành phố”, bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy thông tin.
Cũng theo bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy, năm 2025 là giai đoạn cao điểm cả nước tập trung hoàn thành các tuyến đường cao tốc, khiến nhu cầu vật liệu xây dựng tăng mạnh, đặc biệt vào thời điểm cuối năm, trong khi công suất khai thác của nhiều mỏ trên địa bàn TP HCM đã tiệm cận giới hạn, dẫn đến nguy cơ khan hiếm vật liệu hiểm vật liệu phục vụ các dự án.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 664/2025/NQ-CP, cho phép áp dụng các cơ chế đặc thù nhằm tháo gỡ khó khăn trong khai thác, cung ứng vật liệu xây dựng cho các công trình, dự án trọng điểm.
“Tất cả chúng ta đều hiểu rằng, vật liệu xây dựng đóng vai trò quan trọng trong các dự án đầu tư công, gắn chặt với tiến độ và chất lượng của các dự án. Trong thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các sở, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp; triển khai hiệu quả các cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 66.4; gắn công tác quản lý vật liệu xây dựng với tiến độ thực tế của từng dự án, bảo đảm hài hòa giữa yêu cầu phát triển kinh tế, bảo vệ tài nguyên và mục tiêu tăng trưởng bền vững của TP HCM”, bà Nguyễn Thị Ngọc Thúy nhấn mạnh.
Cần Thơ quyết tâm tháo gỡ "nút thắt" để tăng trưởng cao
Đồng quan điểm với lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP HCM, Phó Chủ tịch TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hoà nhấn mạnh vai trò dẫn dắt của đầu tư công đối với kinh tế Cần Thơ và quyết tâm tháo gỡ các nút thắt trong tổ chức thực hiện đầu tư công.

Để giải quyết tình trạng giải ngân vốn đầu tư công chưa đạt kỳ vọng, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hòa đề xuất tập trung ưu tiên cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thông qua việc kiện toàn bộ máy chính quyền hai cấp hoạt động thông suốt.
Bên cạnh đó, thành phố sẽ đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền rõ ràng và cụ thể hóa kịp thời các quy định pháp luật, đặc biệt là các nghị quyết của Quốc hội để tháo gỡ khó khăn cho Luật Đất đai.
"Kỷ luật trong thi công cũng được siết chặt bằng cách quản lý nhà thầu nghiêm ngặt, theo dõi tiến độ theo từng tháng, từng quý và kiên quyết xử lý các đơn vị không thực hiện đúng cam kết", Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hòa nhấn mạnh.
Đối với bài toán khan hiếm vật liệu xây dựng, theo Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hòa, thành phố đang chủ động rà soát nguồn cung tại chỗ và kiến nghị các Bộ, ngành sớm ban hành tiêu chuẩn cụ thể cho việc sử dụng cát biển trong san lấp.
"Việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, tối ưu hóa thiết kế và nghiên cứu phương án xây dựng cầu cạn tại vùng địa chất yếu cũng được xem là giải pháp căn cơ để giảm nhu cầu sử dụng cát", Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hòa chia sẻ.
Ông Nguyễn Văn Hòa cũng khẳng định, đầu tư công chính là cầu nối dẫn dắt để thu hút các dự án đầu tư tư nhân có tiềm lực chiến lược vào địa bàn.
Đồng thời, ông cho rằng, chỉ khi các nút thắt được tháo gỡ và tiến độ đầu tư công được đẩy nhanh, thành phố mới có thể hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lai.
"Với sự quyết tâm và các giải pháp đồng bộ, TP Cần Thơ kỳ vọng sẽ tạo ra bước chuyển biến đột phá trong công tác đầu tư công để làm đòn bẩy cho toàn bộ nền kinh tế", Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ Nguyễn Văn Hòa nhấn mạnh thêm.
Nhiều chính sách đột phá "mở đường"
Phát biểu tham luận tại Tọa đàm, ông Đậu Anh Tuấn – Phó Tổng thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI khẳng định: trong bối cảnh mới, khi Quốc hội và Chính phủ đặt ra những mục tiêu tăng trưởng kinh tế đầy tham vọng cho năm 2026 với con số lên tới hai chữ số, đầu tư công chính là động lực then chốt để hiện thực hóa tầm nhìn này.

Ông cho rằng, không chỉ đơn thuần là nguồn lực từ ngân sách, đầu tư công được nhìn nhận như một loại “vốn mồi” quan trọng, có vai trò dẫn dắt và kích hoạt các nguồn lực đầu tư từ khu vực tư nhân cũng như dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào nền kinh tế.
Theo góc nhìn của ông Đậu Anh Tuấn, năm 2025 chứng kiến một tốc độ cải cách thể chế “chóng mặt”, một năm được coi là lịch sử về khối lượng văn bản pháp luật được ban hành.
"Cộng đồng doanh nghiệp và các tổ chức như VCCI đã phải nỗ lực hết mình để theo kịp tiến độ xây dựng luật và quy định của Quốc hội cũng như Chính phủ. Số liệu thống kê cho thấy ít nhất 80 đạo luật đã được sửa đổi chỉ riêng trong năm này, đi kèm với đó là số lượng Nghị định kỷ lục ", ông Đậu Anh Tuấn chia sẻ.
Tuy nhiên, từ góc độ của một người làm luật lâu năm, ông cũng thẳng thắn cảnh báo về những rủi ro khi chính sách thay đổi quá nhanh. Nếu các văn bản pháp luật không được cân nhắc thấu đáo hoặc thiếu đánh giá tác động đa chiều, doanh nghiệp có thể sẽ gặp khó khăn trong việc chuẩn bị và thích ứng, dẫn đến những rủi ro không đáng có trong hoạt động kinh doanh.
Đối với lĩnh vực đầu tư nói chung, ông Đậu Anh Tuấn cho biết, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2025 cũng mang đến những thay đổi mang tính bản lề khi chuyển từ tư duy “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”. Giờ đây, hầu hết các dự án đầu tư tư nhân sẽ không còn phải trải qua quy trình chấp thuận chủ trương đầu tư rườm rà, ngoại trừ khoảng 20 nhóm dự án đặc biệt quan trọng hoặc nhạy cảm.
Không dừng lại ở đó, Luật Xây dựng và Luật Địa chất, Khoáng sản cũng được sửa đổi đồng bộ để hỗ trợ tối đa cho các công trình xây dựng. Các bước thẩm định thiết kế cơ sở rườm rà đã được bãi bỏ, giao quyền tự quyết và tự chịu trách nhiệm nhiều hơn cho chủ đầu tư. Việc mở rộng các đối tượng được miễn giấy phép xây dựng và linh hoạt trong điều chỉnh hợp đồng khi gặp điều kiện bất khả kháng cũng là những điểm cộng lớn.
Về quản lý vốn nhà nước, theo ông Đậu Anh Tuấn, Luật Đầu tư công số 90/2025 đã thực hiện một cuộc phân cấp triệt để. Quyền quyết định đã được trao mạnh mẽ cho cấp tỉnh và các bộ ngành, giúp tăng tính chủ động và giảm bớt các tầng nấc trung gian trong việc điều chỉnh kế hoạch vốn trung hạn.
Đồng thời, ông cũng nhấn mạnh rằng năm 2026 sẽ là thời điểm then chốt khi các chính sách đột phá này chính thức đi vào cuộc sống và phát huy hiệu lực. Tuy nhiên, ông cũng lưu ý, sự thành công cuối cùng vẫn phụ thuộc mật thiết vào năng lực tổ chức thực hiện của chính quyền các địa phương.
Từ áp lực giải ngân đến bài toán hiệu quả thực chất
TS Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên Trường Chính sách công và Quản lý Fulbright khẳng định: Đầu tư công không chỉ đơn thuần là một công cụ để kích thích tổng cầu trong ngắn hạn mà quan trọng hơn, đây chính là đòn bẩy để cải thiện năng suất và năng lực cạnh tranh dài hạn cho quốc gia.

Theo một nghiên cứu của ông cho giai đoạn 2010 – 2024, cứ mỗi 1% GDP vốn đầu tư công tăng thêm sẽ đóng góp 0,2% vào tăng trưởng GDP trong năm đầu tiên và tạo ra hiệu ứng lan tỏa lên tới 0,85% trong bốn năm tiếp theo. Những con số này cho thấy sức mạnh lan tỏa của đầu tư công là vô cùng lớn, đóng vai trò dẫn dắt cho toàn bộ dòng chảy kinh tế.
"Trong một kịch bản giả định cho năm 2026, nếu GDP thực tăng 10% và lạm phát ở mức 4%, quy mô nền kinh tế có thể đạt hơn 14 triệu tỷ đồng theo giá hiện hành. Khi đó, theo kế hoạch của Chính phủ nhằm đưa tổng vốn đầu tư xã hội lên mức 40% GDP, chúng ta sẽ cần khoảng 5,8 triệu tỷ đồng, với phần vốn đầu tư công tương đương khoảng 1,65 triệu tỷ đồng", TS Đỗ Thiên Anh Tuấn chia sẻ.
Tuy nhiên, ông cho rằng, bài toán thực sự không nằm ở quy mô vốn mà nằm ở hiệu quả sử dụng vốn, được đo lường qua hệ số ICOR (chỉ số cho biết cần bao nhiêu đồng vốn để tạo ra một đồng sản lượng tăng thêm, số ICOR càng cao thì hiệu quả đầu tư càng thấp). Ông Tuấn chỉ ra rằng hệ số ICOR bình quân của Việt Nam giai đoạn sau đại dịch là 5,85, một mức khá cao phản ánh hiệu quả sử dụng vốn còn thấp.

Đồng thời, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cũng đưa ra một cảnh báo mạnh mẽ rằng nếu hiệu quả sử dụng vốn vẫn giữ ở mức 5,85, chúng ta sẽ phải đẩy quy mô đầu tư xã hội lên tới hơn 47% GDP mới có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng 10%. Đây là một áp lực rất lớn đối với nền kinh tế và nếu chỉ cố tăng quy mô để bù đắp sự kém hiệu quả, nền kinh tế sẽ giống như một “lâu đài cát” dễ bị ảnh hưởng lớn bởi những cơn sóng biến động vĩ mô.
Thay vào đó, một kịch bản khả thi hơn là duy trì mức đầu tư xã hội khoảng 40% GDP nhưng phải quyết liệt cải thiện hiệu quả, đưa hệ số ICOR xuống mức dưới 5. Thực tế trong 15 năm qua, hệ số ICOR của Việt Nam chưa bao giờ xuống dưới mức 4 và hiện vẫn đang ở mức hơn 5,7 mặc dù đã có những tín hiệu giảm tích cực từ năm 2023.
Một kiến nghị mà TS Đỗ Thiên Anh Tuấn nhấn mạnh chính là việc chuyển trọng tâm quản lý từ ưu tiên tỷ lệ giải ngân sang đánh giá hiệu quả trong suốt vòng đời của dự án. Thay vì chỉ nhìn vào các con số giải ngân hàng năm như một chỉ số KPI duy nhất, các cơ quan quản lý cần chú trọng hơn vào giá trị hiện tại ròng (NPV) về mặt kinh tế của dự án, đảm bảo rằng các quyết định đầu tư dựa trên tính toán khoa học thay vì nhận định cảm tính.
Ông cũng kêu gọi sự dứt khoát trong công tác giải phóng mặt bằng, bởi chi phí cơ hội của sự chậm trễ thường lớn hơn rất nhiều so với những khoản chênh lệch bồi thường nhỏ mà chúng ta vẫn thường sa đà vào đàm phán.
Cuối cùng, TS Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng cần phải tăng cường cơ chế điều phối liên ngành, liên vùng để tạo ra các “mạng lưới dự án” có sức cộng hưởng lớn. Việc củng cố kỷ luật ngân sách, tích hợp chi phí vận hành vào quyết định đầu tư và tăng cường năng lực quản lý rủi ro tài khóa là những bước đi không thể thiếu để đảm bảo tính bền vững.
"Đặc biệt, khâu đánh giá và kiểm toán sau khi dự án hoàn thành vốn đang là điểm yếu nhất cần được thiết lập chặt chẽ hơn để rút kinh nghiệm cho các chu kỳ đầu tư tiếp theo. Với những cải cách quyết liệt và thay đổi tư duy quản lý theo hướng thực chất, đầu tư công hoàn toàn có thể trở thành bệ phóng vững chắc đưa kinh tế Việt Nam bứt phá trong giai đoạn tới", TS Đỗ Thiên Anh Tuấn nhấn mạnh.
Giải tỏa “cơn khát” vật liệu để khơi thông dòng vốn đầu tư công
Ông Phan Tấn Đạt - Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Khoáng sản TP HCM, Chủ tịch KSB chia sẻ: mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế đặc thù, nhưng tình trạng thiếu vật liệu vẫn khiến các dự án đối mặt với nguy cơ chậm tiến độ và phát sinh chi phí khổng lồ. Đáng lo ngại hơn, do ưu tiên cung ứng cho các công trình nhà nước, thị trường vật liệu xây dựng phục vụ nhu cầu dân sinh và các doanh nghiệp ngoài khu vực công hầu như bị bỏ trống.

Để tháo gỡ tình trạng này, ông Phan Tấn Đạt thay mặt Hiệp hội kiến nghị các cơ quan chức năng cần thay đổi tư duy quản lý bằng cách cho phép tăng công suất khai thác ngay lập tức đối với các mỏ đã có hồ sơ đúng quy định. Việc giới hạn công suất hằng năm theo các thủ tục cũ đang làm mất đi tính cấp bách của các dự án đầu tư công.
Một điểm nghẽn khác nằm ở câu chữ trong Luật Địa chất và Khoáng sản, khi quy định chỉ dùng từ “ưu tiên” thay vì bắt buộc đối với việc cho phép các tổ chức đang khai thác được thăm dò mở rộng xuống sâu mà không qua đấu giá. Cách hiểu khác nhau giữa các cơ quan quản lý dẫn đến việc nhiều nơi chọn giải pháp an toàn là đưa tất cả vào đấu giá, gây khó khăn cho doanh nghiệp đang hoạt động.
Ngoài ra, quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản hiện nay cũng bộc lộ những bất cập vô cùng phức tạp khi tách rời quyền khai thác và quyền sử dụng đất. Nhiều doanh nghiệp trúng đấu giá quyền khai thác nhưng lại không có quyền sở hữu đất, trong khi chủ đất lại không tham gia đấu giá, dẫn đến tình trạng dự án bị treo lơ lửng suốt 5 đến 6 năm vì không thể thỏa thuận đền bù.
“Đối với những doanh nghiệp đã có sẵn quỹ đất hợp pháp, nhà nước nên cho phép họ trực tiếp khai thác mà không cần qua đấu giá, hoặc nếu đấu giá thì nhà nước phải thực hiện thu hồi đất toàn bộ trước khi đem ra đấu giá quyền khai thác. Những sửa đổi trong Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 dù mới có hiệu lực nhưng vẫn chưa giải quyết được các mâu thuẫn này để thực sự tăng cường nguồn cung cho thị trường”, ông Phan Tấn Đạt đề xuất.
Đồng thời, ông cũng khẳng định, Hiệp hội Công nghiệp Khoáng sản TP HCM sẽ luôn đồng hành chính quyền thành phố và cam kết đảm bảo nguồn cung vật liệu ổn định nếu các nút thắt thể chế được tháo gỡ. Khi các rào cản pháp lý không còn, các doanh nghiệp cam kết sẽ cung cấp vật liệu với chất lượng tốt và giá cả hợp lý theo khung giá nhà nước, thay vì để các công trình phải mua với giá cao ngoài thị trường như hiện nay.
Kiến nghị từ thực tiễn

Phát biểu đề dẫn tại phiên thảo luận, ông Nguyễn Thế Minh – Phó Cục trưởng Cục kinh tế - Quản lý đầu tư xây dựng, Bộ Xây dựng nhận định rằng bên cạnh các yếu tố khách quan khác, việc không đảm bảo nguồn cung vật liệu xây dựng đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ triển khai cũng như kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công hàng năm của các bộ ngành và địa phương. Đây là một vấn đề đã tồn tại từ lâu, đi từ những bất cập của hệ thống pháp luật cũ đến những khó khăn thực tế trong quá trình tổ chức thực hiện tại các cấp cơ sở.
Một trong những điểm nghẽn lớn nhất mà ông Nguyễn Thế Minh chỉ ra chính là vấn đề thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại các khu vực mỏ. Thực tế cho thấy nhiều chủ sở hữu đất không muốn chuyển nhượng hoặc cố tình nâng giá lên cao khi biết có dự án đi qua, khiến việc cấp phép mỏ cho các dự án quan trọng quốc gia gặp muôn vàn khó khăn.

Cũng theo ông Nguyễn Thế Minh, việc sửa đổi Luật Đất đai lần này, trong đó quy định khu vực khai thác khoáng sản được phép thu hồi đất, chính là nút thắt mấu chốt được tháo gỡ. Nếu không thể thu hồi đất mà chỉ dựa vào thỏa thuận, bài toán khai thác mỏ sẽ mãi không có lời giải vì luôn có những trường hợp không thể đạt được sự đồng thuận về giá cả.
Tuy nhiên, ông cũng thẳng thắn thừa nhận rằng pháp luật dù đã sửa đổi rất nhiều để tiệm cận thực tế, nhưng vấn đề cốt lõi hiện nay vẫn nằm ở khâu tổ chức thực hiện và yếu tố con người tại các địa phương.
Ông cũng bày tỏ quan ngại về tư duy “cục bộ địa phương” trong quản lý tài nguyên. Hiện nay, tài nguyên khoáng sản tuy là tài sản quốc gia nhưng lại được quản lý theo địa giới hành chính, dẫn đến tình trạng địa phương nào có mỏ thì giữ lại cho địa phương đó, khiến các tỉnh không có mỏ gặp rất nhiều khó khăn.
Do đó, ông kiến nghị cần có một sự chỉ đạo xuyên suốt để biến tài nguyên khoáng sản đúng nghĩa thành nguồn lực quốc gia, nơi các địa phương có mỏ phải chia sẻ và hỗ trợ cho những vùng thiếu hụt nguồn cung. Chỉ khi giải quyết được bài toán tổng thể này mới có thể đảm bảo đủ vật liệu cho hệ thống hạ tầng toàn quốc thay vì chỉ giải quyết cục bộ cho một vài dự án.
Một vấn đề khác không kém phần quan trọng là sự chênh lệch giữa giá vật liệu công bố và giá thực tế. Ông Minh chỉ ra rằng các địa phương hiện chủ yếu công bố giá tại mỏ theo cơ chế đặc thù vốn chỉ chiếm một phần nhỏ nguồn cung, trong khi thực tế nhà thầu phải mua từ nhiều nguồn khác nhau với giá cao hơn nhiều. Tâm lý “thà không làm còn hơn làm thì lỗ” đang lan rộng trong giới nhà thầu khi giá vật liệu đội lên gấp hai, ba lần so với dự toán ban đầu.
Do đó, ông nhắc nhở các địa phương khi công bố giá vật liệu hàng tháng phải xác định rõ nguồn và khả năng cung ứng thực tế theo quy định của Bộ Xây dựng, thay vì chỉ công bố những con số không có khả năng cung cấp.

Đồng quan điểm, ông Võ Minh Đức – Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Khoáng sản TP HCM, Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam cho rằng, trong giai đoạn vừa qua, tình hình đầu tư công và thị trường bất động sản đã rơi vào trạng thái “rối ren” do sự thiếu hụt nguồn vật liệu trầm trọng, dẫn đến giá cả leo thang và gây khó khăn cho các nhà thầu triển khai dự án.
Theo phân tích của ông Võ Minh Đức, các giải pháp hiện nay chủ yếu mới chỉ giải quyết được phần ngọn, trong khi cái gốc của vấn đề nằm ở những lỗ hổng pháp lý và tư duy quản lý. Ông cho rằng, hiện nay Việt Nam đang thiếu một quy hoạch tổng thể về vật liệu xây dựng thông thường ở cấp quốc gia. Trong khi các loại vật liệu như xi măng, gạch ốp lát, kính đã có quy hoạch phát triển rõ ràng đến năm 2030 và tầm nhìn 2050, thì các loại vật liệu thiết yếu cho san lấp và hạ tầng như đất, cát, đá lại đang nằm trong một khoảng trống quản lý.
Ông cũng nhấn mạnh sự lệch pha giữa quy hoạch và thực tế khai thác. Theo đó, tại khu vực miền Đông và miền Tây Nam Bộ, nhu cầu vật liệu đá xây dựng và cát san lấp đang cực kỳ lớn, đặc biệt là khi các dự án cao tốc đồng loạt triển khai. Mặc dù quy hoạch đã được phê duyệt với trữ lượng lên tới hàng tỷ mét khối đá, nhưng để đưa được nguồn tài nguyên này vào thực tế lại là một hành trình gian nan.

Về khía cạnh kỹ thuật và định mức, ông Võ Minh Đức cho rằng nhiều quy định đã lỗi thời trong công tác thăm dò khoáng sản. Việc bắt buộc phải khoan thăm dò với mật độ quá dày đối với những khối đá có cấu tạo đơn giản không chỉ gây lãng phí thời gian, tiền bạc mà còn làm chậm tiến độ cấp phép mỏ một cách vô lý.
Một điểm nghẽn lớn khác được ông chỉ ra là sự thiếu đồng bộ trong quá trình triển khai dự án đầu tư công. Thông thường, công tác chuẩn bị nguồn vật liệu chỉ được bắt đầu khi dự án đã triển khai thi công, dẫn đến tình trạng “nước đến chân mới nhảy”.
Ông cũng kỳ vọng vào sự thay đổi của Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 trong việc phân cấp cho chính quyền địa phương phê duyệt các khu vực không đấu giá quyền khai thác. Đây là mấu chốt để giải quyết bài toán cho các mỏ đang hoạt động muốn mở rộng hoặc xuống sâu mà không phải trải qua quy trình đấu giá phức tạp, vốn thường gây ra xung đột về quyền lợi đất đai và máy móc thiết bị giữa doanh nghiệp cũ và mới. Đồng thời, cần mạnh dạn chuyển từ tư duy “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” trong quản lý đầu tư để giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà cho doanh nghiệp.
“Nếu chúng ta có được sự chủ động, có kế hoạch cung ứng dài hạn cho cả giai đoạn 2026 – 2030 thì bộ máy lãnh đạo sẽ không phải vất vả xử lý những vấn đề mang tính sự vụ như vậy. Chỉ khi cái gốc của chính sách được khơi thông và cái tâm của người thực thi được đặt đúng chỗ, nguồn lực vật liệu mới thực sự trở thành bệ đỡ vững chắc cho các công trình hạ tầng vươn xa”, ông Võ Minh Đức nhấn mạnh.
Thảo luận tại Tọa đàm, ông Trần Ngọc Liêm – Giám đốc VCCI-HCM đã mang đến một cái nhìn toàn cảnh từ thực tế của gần 400.000 doanh nghiệp đang hoạt động tại khu vực kinh tế năng động nhất cả nước. Giám đốc VCCI-HCM Trần Ngọc Liêm nhấn mạnh rằng, đầu tư công không chỉ đơn giản là những con số thống kê khô khan trên mặt giấy, mà thực chất là nhân tố quan trọng bậc nhất để hiện thực hóa kỳ vọng tăng trưởng kinh tế ở mức hai chữ số trong giai đoạn tới.

Ông phân tích, nếu chúng ta coi đầu tư công là “dòng máu” nuôi dưỡng hệ thống kinh tế, thì nguồn cung vật liệu xây dựng chính là các “tế bào máu” dẫn dắt nguồn lực đi vào thực tiễn đời sống.
Tuy nhiên, ông Trần Ngọc Liêm cũng chỉ ra rằng “dòng máu” này đang bị tắc nghẽn bởi hai điểm nghẽn lớn là sự khan hiếm nguồn cung vật liệu xây dựng và những bất cập trong cơ chế thực thi tại các cấp.
“Mặc dù hệ thống pháp luật đã có những bước tiến dài và linh hoạt hơn trước, nhưng khâu triển khai tại các địa phương vẫn còn bộc lộ nhiều lúng túng và thiếu sự đồng bộ cần thiết” Giám đốc VCCI-HCM Trần Ngọc Liêm nhấn mạnh.
Đồng quan điểm về những khó khăn hiện hữu, ông Phạm Viết Thuận - Viện trưởng Viện Kinh tế Tài nguyên và Môi trường TP HCM cho rằng, nên đi thẳng vào những vấn đề cốt lõi nhất đang cản trở tiến độ.
Qua thực tế triển khai các dự án trọng điểm, ông Phạm Viết Thuận nhận diện ba điểm nghẽn chính bao gồm: giải phóng mặt bằng, vướng mắc về thể chế và những khó khăn trong khâu thực thi trực tiếp tại chính quyền địa phương.

Một trong những vấn đề gây nhức nhối nhất hiện nay, theo ông Phạm Viết Thuận, chính là sự chênh lệch quá lớn giữa giá vật liệu thực tế ngoài thị trường và đơn giá được quy định trong các hợp đồng. Có những thời điểm giá cát ngoài thị trường cao hơn gần gấp đôi so với giá cát trong đơn giá của nhà nước.
“Phần lớn các hợp đồng đầu tư công hiện nay vẫn là loại hợp đồng trọn gói hoặc bị khóa cứng đơn giá, trong khi giá vật liệu biến động không ngừng, khiến các nhà thầu rơi vào tình cảnh khó khăn cực kỳ và không thể tiếp tục triển khai công việc”, ông Phạm Viết Thuận phân tích.
Để giải quyết tận gốc bài toán vật liệu, Giám đốc VCCI-HCM Trần Ngọc Liêm đề xuất cần có một tư duy quy hoạch mang tính chủ động và đi trước một bước. Ông cũng khẳng định không thể đợi đến khi dự án bắt đầu triển khai rồi mới vội vàng đi tìm nguồn cung vật liệu hay bắt đầu quy hoạch các mỏ khoáng sản.
Thay vào đó, ông Trần Ngọc Liêm kiến nghị các địa phương cần phải tích hợp quy hoạch khai thác khoáng sản đồng bộ với quy hoạch hạ tầng giao thông ngay từ đầu. Đồng thời, ông cũng cho rằng, cần trao cơ hội cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia chuẩn bị nguồn lực dài hạn thay vì chỉ cho phép khai thác mang tính vụn vặt theo từng dự án nhỏ lẻ như hiện nay. Bên cạnh đó, cần có một cơ chế định giá vật liệu linh hoạt và bám sát thị trường hơn.
Liên quan đến công tác giải phóng mặt bằng, ông Phạm Viết Thuận lấy dẫn chứng từ thực tế dự án cao tốc nối TP HCM và Tây Ninh. Trong khi phía Tây Ninh đã cơ bản hoàn tất công tác này thì phía TP HCM lại gặp vướng mắc lớn do đơn giá bồi thường quá thấp so với thực tế.
Ông Phạm Viết Thuận tin rằng khi người dân được bồi thường thỏa đáng, họ sẽ sẵn sàng bàn giao mặt bằng sớm hơn cho dự án. Thậm chí, nên chấp nhận chi trả bồi thường cao hơn một chút để đẩy nhanh tiến độ vì khi tính toán dài hạn, cái lợi từ việc hoàn thành dự án sớm sẽ thừa sức bù đắp cho các chi phí trượt giá và rủi ro khác.
Theo quan điểm của ông Lê Hoàng Châu - Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP HCM, thì nguồn vốn đầu tư công chính là loại “vốn mồi” thiết yếu để thu hút các nguồn lực xã hội, bao gồm cả các nguồn lực từ khối tư nhân trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, Chù tịch HoREA Lê Hoàng Châu cũng nhìn nhận, hiệu quả đầu tư hiện nay, thể hiện qua chỉ số ICOR vẫn còn ở mức thấp. Để cải thiện tình hình, ông Lê Hoàng Châu cho rằng, giải pháp cốt yếu là phải rút ngắn thời gian thực hiện bằng cách tập trung tháo gỡ hai trở ngại lớn nhất hiện nay.
Trở ngại thứ nhất là công tác giải phóng mặt bằng, vốn là nguyên nhân chính khiến tỷ lệ giải ngân thường xuyên ở mức thấp. Tuy vậy, năm 2025 đang có sự đột phá nhờ các nỗ lực tháo gỡ trong Nghị quyết của Quốc hội, cho phép áp dụng bảng giá đất để tính giá bồi thường sát thực tế và tách dự án giải phóng mặt bằng ra khỏi dự án đầu tư chung.
Trở ngại thứ hai là tình trạng thiếu hụt vật liệu xây dựng nghiêm trọng, đặc biệt là cát. Để giải bài toán này, ông Lê Hoàng Châu đề xuất khẩn trương khai thác nguồn cát dồi dào từ Campuchia sau khi đã có những buổi làm việc và khảo sát thực địa. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh các tiêu chuẩn cho cát nhân tạo từ phế liệu công nghiệp để thay thế cát tự nhiên đang dần cạn kiệt cũng là một giải pháp tốt.
Tiếp nối các vấn đề về thực thi hạ tầng, ông Hà Huy Cường - Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Nam Á khẳng định, ngành ngân hàng đóng vai trò then chốt khi vừa là đơn vị cung ứng vốn, vừa là bên quản lý dòng tiền cho các dự án. Theo dự báo của ông Hà Huy Cường, bước sang năm 2026, Việt Nam sẽ chứng kiến một sự chuyển mình mạnh mẽ khi các cơ chế thúc đẩy kinh tế tư nhân tạo ra hiệu ứng như một chiếc lò xo được giải phóng.

Tuy nhiên, ông Hà Huy Cường cũng cảnh báo về áp lực nguồn vốn khi nhu cầu tín dụng dự kiến tăng từ 17% đến 18%, trong khi tốc độ huy động vốn chỉ đạt khoảng 11% đến 12%. Để giải quyết khoảng kép này, ông Cường đưa ra ba đề xuất trọng tâm.
Thứ nhất là khơi thông kênh trái phiếu đặc biệt dành riêng cho đầu tư công để hỗ trợ nguồn vốn cho gần 500 dự án trọng điểm quốc gia.
Thứ hai là đề xuất các cơ quan quản lý linh hoạt các tỷ lệ an toàn vốn, xem xét tách phần vốn đầu tư công ra khỏi giới hạn sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn để giảm áp lực cho các ngân hàng thương mại.
Thứ ba, ông Cường nhấn mạnh việc thu hút nguồn vốn ngoại từ các quỹ đầu tư quốc tế và khẳng định các ngân hàng sẵn sàng đóng vai trò chuyên gia kết nối để đưa dòng vốn này về phục vụ các dự án hạ tầng trong nước.

Tổng kết Tọa đàm, ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch VCCI, nhấn mạnh rằng đầu tư công không chỉ là công cụ kích thích tăng trưởng ngắn hạn mà cần nhìn nhận đầu tư công như một đòn bẩy chiến lược để nâng cao năng suất và cải thiện chất lượng tăng trưởng dài hạn cho nền kinh tế. Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành đánh giá năm 2026 chính là năm bản lề cho một giai đoạn phát triển mới, nơi vai trò của đầu tư công trở nên đặc biệt quan trọng.
Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành cũng cam kết, VCCI sẽ tập hợp và chắt lọc những đề xuất xác đáng nhất trình lên các cơ quan thẩm quyền. Đồng thời khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành cộng đồng doanh nghiệp để tháo gỡ các khó khăn thực tế, cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân.
“Mặc dù thách thức phía trước là rất lớn nhưng cơ hội cũng không hề nhỏ. Tôi tin tưởng rằng nếu đầu tư công được tháo gỡ đúng những nút thắt cốt lõi và đặt đúng vai trò dẫn dắt, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để kỳ vọng vào một giai đoạn tăng trưởng mới với chất lượng cao hơn, bền vững hơn và dựa nhiều vào năng suất cùng sự sáng tạo”, Phó Chủ tịch VCCI Võ Tân Thành kết luận.