Phân tích - Bình luận
Xanh hóa chuỗi giá trị thủy sản
Xanh hóa chuỗi giá trị đang buộc ngành thủy sản Việt Nam tái cấu trúc từ khâu nuôi trồng đến chế biến, logistics và xuất khẩu nhằm đáp ứng các chuẩn mực bền vững toàn cầu.

Dù ngành thủy sản Việt Nam đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, mang lại giá trị xuất khẩu lớn và là một trong 5 ngành kinh tế biển chủ chốt trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2030, nhưng sản xuất thủy sản vẫn dựa vào tài nguyên thiên nhiên và hệ sinh thái.
Tuần hoàn để bền vững
Với kinh tế truyền thống, doanh nghiệp nuôi trồng và chế biến thủy sản chủ yếu tập trung đầu tư cho sản phẩm cuối cùng. Hiện nay, tiêu chuẩn mới đòi hỏi các nhà sản xuất tối ưu hóa mọi quy trình, không chỉ “xanh” mà còn minh bạch, dựa trên 3 trụ cột: sử dụng tài nguyên hiệu quả, giảm phát thải khí nhà kính và giảm chất ô nhiễm.
TS Hồ Quốc Lực, Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Sao Ta, cho rằng: “Để xanh hóa ngành thủy sản, trước tiên cần xanh hóa từng mắt xích. Trong đó, khâu nuôi trồng thủy sản là đáng quan tâm nhất, bởi mắt xích này tạo ra chất thải khá lớn”.
Các doanh nghiệp như Công ty THNN Việt Úc - Phú Mỹ (Gia Lai), Chính Floc (Khánh Hòa), Công ty TNHH Thủy sản Australis, Công ty CP Nuôi trồng thủy sản Phương Minh,… đã áp dụng các mô hình nuôi tiên tiến Biofloc, RAS, ASC, IMTA, hướng đến xu thế sử dụng dữ liệu và trí tuệ nhân tạo để tối ưu hoá thức ăn, dự báo sinh khối và tăng trưởng, theo dõi sức khỏe và dự đoán dịch bệnh.
Ở khâu chế biến, tư duy sử dụng tài nguyên hiệu quả được thể hiện qua việc tận dụng phụ phẩm. Với cá tra và tôm - hai ngành hàng chủ lực, phụ phẩm từng bị coi là chất thải nay đã trở thành nguồn nguyên liệu có giá trị. Trong đó, da, mỡ, xương cá tra được chế biến thành collagen, dầu cá, bột cá; vỏ tôm được dùng trong sản xuất chitosan. Việc nâng cao tỷ lệ tận dụng phụ phẩm không chỉ giảm áp lực môi trường mà còn giúp doanh nghiệp gia tăng giá trị, giảm phụ thuộc vào xuất khẩu sản phẩm thô.
Nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản đã bắt đầu đầu tư hệ thống điện mặt trời áp mái, từng bước giảm phụ thuộc vào điện lưới và cắt giảm lượng CO₂ phát sinh. Ở khâu nuôi, việc cải thiện hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) không chỉ giúp giảm chi phí mà còn giảm phát thải gián tiếp từ sản xuất thức ăn công nghiệp - một nguồn phát thải lớn nhưng thường bị bỏ qua.
Trong quá trình xanh hóa chuỗi cung ứng, ngành thủy sản đang từng bước chuyển sang ngăn ngừa ô nhiễm ngay từ đầu. Việc giảm sử dụng hóa chất, thay thế bằng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng giúp hạn chế ô nhiễm nước và giảm rủi ro bị cảnh báo dư lượng khi xuất khẩu.
Đa dạng hóa lợi ích
Ông Phùng Đức Tiến, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường khẳng định: “Hướng tới ngành thủy sản xanh là yêu cầu bắt buộc và không thể đảo ngược lại với xu thế của thế giới. Ít nhất chúng ta phải có khái niệm trong đầu ngay từ bây giờ, nếu chậm sẽ khó hội nhập sâu rộng. Tuyệt đối không được làm theo phong trào”.
Tác động trực tiếp và rõ ràng nhất của xanh hóa là duy trì quyền tiếp cận thị trường. Các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản ngày càng áp dụng chặt chẽ các tiêu chuẩn về phát thải carbon, bảo vệ môi trường và truy xuất nguồn gốc. Sản phẩm không đáp ứng tiêu chí xanh có nguy cơ bị loại khỏi chuỗi cung ứng, bị tăng cường kiểm tra hoặc thậm chí bị từ chối nhập khẩu.
Ngược lại, doanh nghiệp thực hiện tốt xanh hóa có thể giữ vững thị phần tại các thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng sang các phân khúc cao cấp, nơi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm bền vững. Trong nhiều trường hợp, “xanh” đã trở thành điều kiện tiên quyết, không còn là lợi thế cộng thêm.
Xanh hóa không chỉ giúp được phép xuất khẩu mà còn nâng cấp giá trị sản phẩm. Các sản phẩm có chứng nhận bền vững, phát thải thấp hoặc truy xuất nguồn gốc rõ ràng thường có lợi thế về giá, khả năng ký hợp đồng dài hạn và mối quan hệ bền chặt với nhà nhập khẩu.
Một lợi ích ít thấy nhưng ngày càng quan trọng là xanh hóa giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận tín dụng xanh, vốn đầu tư quốc tế và các chương trình hỗ trợ kỹ thuật. Các tổ chức tài chính và nhà đầu tư đang ưu tiên các doanh nghiệp có chiến lược giảm phát thải, sử dụng tài nguyên hiệu quả và quản trị môi trường tốt.
Ở tầm vĩ mô, xanh hóa xuất khẩu không chỉ mang lại lợi ích cho từng doanh nghiệp mà còn nâng cao hình ảnh và uy tín của quốc gia xuất khẩu. Khi hàng hóa Việt Nam gắn với tiêu chuẩn xanh và trách nhiệm môi trường, nguy cơ bị gắn nhãn “xuất khẩu gây ô nhiễm” sẽ giảm, tạo thuận lợi cho đàm phán thương mại và mở cửa thị trường trong dài hạn.
Ông Nguyễn Hoài Nam, Tổng thư ký VASEP, khẳng định VASEP và các doanh nghiệp hội viên sẽ tiếp tục đồng hành cùng Chính phủ triển khai Đề án bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản giai đoạn 2026-2030, nâng cao trách nhiệm và nhận thức môi trường, chủ động đầu tư công nghệ xanh và kinh tế tuần hoàn, đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế để tiếp cận nguồn lực và kinh nghiệm. Đây là con đường duy nhất để thủy sản Việt Nam giữ vững thị phần và nâng cao giá trị trên thị trường quốc tế.