Diễn đàn Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ được tổ chức từ 13h30 – 17h00, ngày 27/09/2023 tại trụ sở VCCI Hà Nội.
>>LOGISTICS VÙNG ĐÔNG NAM BỘ: Liên kết vùng phát triển chuỗi logistics
Ngày 10/02/2022, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045.
Để triển khai hiệu quả Nghị quyết trên, ngày 1/8/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 96NQ-CP với mục tiêu đến năm 2030, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, trên cơ sở tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với vùng đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội.
Để phát huy hơn nữa lợi thế của khu vực, đặc biệt là kết nối giữa các doanh nghiệp trong cộng đồng kinh tế vùng, và hướng đến tính hiệu quả lan tỏa đầu tư của Vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ, được sự chỉ đạo của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức:
DIỄN ĐÀN LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ
Thời gian: 13h30 - 17h00, Thứ Tư, ngày 27/9/2023
Địa điểm: Hội trường tầng 7, Tòa nhà VCCI, số 9 Đào Duy Anh, Hà Nội
Tham dự Diễn đàn, về phía lãnh đạo các tỉnh trong Vùng có: Ông Nguyễn Văn Sơn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang; Ông Hoàng Quốc Khánh - Phó Chủ tịch thường trực UBND tỉnh Lào Cai; Ông Phan Thế Tuấn - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang.
Về phía VCCI có: Ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).
Về phía các diễn giả tham dự có: Ông Lò Quang Tú - Vụ trưởng - Vụ Công tác Dân tộc địa phương (Uỷ ban Dân tộc); Ông Hoàng Trường Giang - Phó Vụ trưởng - Vụ Kinh tế Vùng và Địa phương (Ban Kinh tế Trung ương); Ông Hà Văn Siêu - Phó Cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam; Ông Nguyễn Văn Hội – Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương (Bộ Công Thương); Ông Phạm Hoài Chung - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông Vận tải – Bộ Giao thông Vận tải; Ông Trương Đức Trọng, Chuyên gia dự án PCI, Ban Pháp chế VCCI.; Bà Bùi Thanh Hằng – Trung tâm ươm tạo và hỗ trợ Doanh nghiệp KHCN - Cục phát triển doanh nghiệp KHCN- Bộ KHCN.
Về phía ban tổ chức có: Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng Biên tập Phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp.
Tham dự Diễn đàn còn có gần 20 giám đốc và phó giám đốc đại diện các Sở, ngành thuộc các tỉnh Vùng trung du Miền núi Bắc Bộ và đông đảo các hiệp hội ngành nghề, hiệp hội doanh nghiệp địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, nhà đầu tư.
>>LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ: “Đất lành, chim đậu”
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch VCCI cho biết, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế, thuận lợi kết nối giao thương với Trung Quốc và ASEAN.
Trong đó, tiềm năng lớn để phát triển kinh tế biên mậu, là vùng giàu tài nguyên, khoáng sản; thuận lợi phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản; hội tụ đầy đủ nhiều tiềm năng du lịch đặc sắc; đặc biệt, đây là vùng đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng.
Tuy nhiên, lợi thế của vùng vẫn chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Trong đó, vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ vẫn là "vùng trũng" trong phát triển kinh tế và là "lõi nghèo" của cả nước, liên kết vùng còn chưa chặt chẽ.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 37 và ban hành Nghị quyết số 11 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Mục tiêu phát triển vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ trở thành vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện và là hình mẫu phát triển xanh của cả nước.
Dự kiến có khoảng 50% số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng cao; quốc phòng an ninh được bảo đảm vững chắc; tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh; khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường.
“Nghị quyết 11 đã đưa ra nhiều điểm mới, có tính đột phá trong phát triển vùng, nhất là về định hướng phát triển, mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể, giải pháp rõ ràng, gắn với một số chủ trương lớn về nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách đặc thù, thí điểm sẽ là cơ sở và là là cơ hội cho vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ phát triển trong giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 96/NQ-CP ngày 01/8/2022 với 06 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Đồng thời đề ra 17 nhiệm vụ cụ thể, 33 dự án liên vùng, kết nối và phân công cho các bộ, ngành triển khai thực hiện với lộ trình thời gian cụ thể.
Nghị quyết của Chính phủ đề ra mục tiêu phấn đấu trong giai đoạn 2021 - 2030, tăng trưởng GRDP vùng đạt 8,0-9,0%/năm; đến năm 2030, quy mô kinh tế vùng đạt khoảng 2.100 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành); GRDP bình quân đầu người đạt 140 triệu đồng/người/năm (giá hiện hành); tổng thu ngân sách nhà nước đạt khoảng 190.000 tỷ đồng. Là những con số ấn tượng và khả thi có thể đạt được”, ông Hoàng Quang Phòng nhấn mạnh.
Cũng theo chia sẻ của Phó chủ tịch VCCI, trong Nghị quyết của Đảng và Nhà nước nói tới rất nhiều điểm “mới”. Với tư duy mới, tầm nhìn mới, lộ trình phát triển mới, vận hội mới… chính là nền tảng quan trọng, giúp “vùng lõi nghèo” miền núi Bắc Bộ phát triển đột phá trong thời gian tới.
Tư duy mới là khi không chỉ Chính phủ, các cơ quan hoạch định chính sách, mà từng địa phương đều hiểu rõ rằng, liên kết là để phát triển và muốn phát triển thì phải liên kết. Và rằng, tư duy liên kết chính là một bộ phận không thể tách rời của tư duy phát triển. “Muốn đi nhanh hãy đi một mình, muốn đi xa hãy đi cùng nhau”. Câu ngạn ngữ ấy, cho đến nay vẫn mang tính thời sự, nhất là khi Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đang bàn cách bắt tay nhau phát triển kinh tế - xã hội.
Ông Hoàng Quang Phòng khẳng định, liên kết chặt chẽ là khi không chỉ chính quyền mà ngay cả doanh nghiệp cùng chung tay xây dựng một quy hoạch chung cho toàn vùng. Liên kết để hình thành và phát triển hệ thống đô thị kết nối nội vùng với các đô thị lớn Vùng Đồng bằng sông Hồng, phát triển các chuỗi liên kết, trung tâm kinh tế đô thị vùng gắn với các đô thị vùng biên giới.
Liên kết để hình thành một số cực tăng trưởng và trung tâm kinh tế của Vùng, song hành với phát triển hành lang kinh tế, gắn với không chỉ hệ thống giao thông kết nối, mà còn với tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong vùng, tránh cạnh tranh lẫn nhau bằng mọi giá.
Chính sự liên kết toàn diện này sẽ giúp các địa phương trong vùng biến thách thức thành cơ hội, biến thách thức thành cơ hội, biến tiềm năng thành tiềm lực, biến tiềm lực thành nguồn lực, để Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ có thể phát triển đột phá, bắt kịp các vùng kinh tế động lực khác.
Nếu liên kết vùng tại tất cả các vùng được đẩy mạnh, thì tình hình kinh tế - xã hội của từng vùng và của cả nước chắc chắn sẽ có bước đột phá. Quan trọng hơn cả, khi liên kết nội vùng được phát triển, doanh nghiệp sẽ tìm thấy sức hút riêng có của Vùng.
“Đất có lành, chim mới đậu”, liên kết vùng Trung du miền núi Bắc Bộ không chỉ đem đến động lực mới cho vùng mà còn đem đến sự kết nối từ chính mối dây doanh nghiệp.
Tôi tin rằng, Diễn đàn Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ sẽ có những kiến nghị cụ thể trên cơ sở đánh giá thực tế; những khó khăn vướng mắc; nhận diện cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp, nhà đầu tư; lắng nghe ý kiến, kiến nghị, đối thoại từ các nhà quản lý, chuyên gia kinh tế, các địa phương và đặc biệt là từ phía các doanh nghiệp, nhà đầu tư. Qua đó, gợi mở các giải pháp, hướng đi mới thúc đẩy phát triển bền vững vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ như mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đã đề ra”, vị Phó chủ tịch VCCI bày tỏ.
>>LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ: Đẩy mạnh phát triển dự án hạ tầng giao thông lớn
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN DỰ ÁN HẠ TẦNG GIAO THÔNG LỚN
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Hoàng Quốc Khánh, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lào Cai nhấn mạnh, Nghị quyết 11-NQ/TW là sự kế thừa và phát triển Nghị quyết số 37/NQ-TW của Bộ Chính trị; thể hiện tầm nhìn bao quát, vừa chiến lược, vừa cụ thể của Đảng ta; là sản phẩm của tập trung trí tuệ trên cơ sở tổng kết thực tiễn sinh động và đúc rút các bài học, kinh nghiệm trong gần 20 năm thực hiện Nghị quyết 37-NQ/TW. Vì thế, Nghị quyết tiếp tục đáp ứng được niềm tin, nguyện vọng chính đáng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong vùng về những chủ trương, định hướng của Đảng.
Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lào Cai, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng Trung du và Miền núi Bắc bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã chỉ ra và xác định rõ vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng, giàu tài nguyên và có vai trò quyết định đối với môi trường sinh thái của cả vùng Bắc Bộ nhưng đây vẫn là "vùng trũng" trong phát triển và là "lõi nghèo" của cả nước.
Một trong những nguyên nhân được thẳng thắn nhìn nhận là "năng lực kết nối giao thông, bao gồm cả trục dọc và trục ngang còn nhiều hạn chế, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, mới chỉ nghiêng về giao thông đường bộ (nhưng cũng chưa hoàn chỉnh, mới chỉ hình thành một số tuyến cao tốc như: Nội Bài – Lào Cai, hay Hà Nội – Thái Nguyên…)", dẫn đến tình trạng các địa phương trong vùng như những người hàng xóm "gần nhà xa ngõ", muốn từ Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên đến Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ nhanh nhất chỉ có cách đi về Hà Nội rồi quay ngược lại vì thiếu trục giao thông ngang kết nối giữa hai địa phương…. những điều đó đã ảnh hưởng lớn đến cơ hội giao thương, xúc tiến đầu tư của các tỉnh trong Vùng.
Nhìn từ thực tiễn của tỉnh Lào Cai, là địa phương tại Nghị quyết 11-NQ/TW, Trung ương đã chỉ đạo xây dựng Lào Cai là "Cực tăng trưởng và trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam - Trung Quốc", điều đó một phần dựa trên cơ sở các tiềm năng, thế mạnh sẵn có của tỉnh.
Cụ thể, Lào Cai có vị trí địa lý đặc biệt nằm giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc, có vị trí chiến lược trong sáng kiến “Vành đai và Con đường” và tuyến hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Tỉnh cũng có điều kiện tự nhiên, thiên nhiên ưu đãi, đa dạng về bản sắc văn hóa để trở thành điểm du lịch nghỉ dưỡng Quốc tế với trung tâm là Khu du lịch Quốc gia Sa Pa, Khu du lịch Y Tý... đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch.
Lào Cai có thế mạnh về công nghiệp chế biến gắn với hoạt động khai khoáng: Với trên 35 loại khoáng sản, 150 điểm mỏ có trữ lượng lớn, trong đó có nhiều loại khoáng sản có trữ lượng lớn của cả nước (Apatit, Sắt, Đồng và Đất hiếm).
Đồng thời, có điều kiện và truyền thống giữ vai trò đầu mối thúc đẩy quan hệ toàn diện giữa các tỉnh trong vùng và tỉnh Vân Nam - Trung Quốc dựa trên cơ sở mối quan hệ láng giềng hữu nghị, tốt đẹp được hai địa phương xây dựng, vun đắp.
“Kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai trong những năm qua luôn là điểm sáng của Vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ; GRDP bình quân đầu người của tỉnh luôn tăng trưởng ở mức cao, giai đoạn 2010-2020 đạt 10,9%/năm. Giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu tăng trưởng bình quân đạt 15%/năm”, ông Hoàng Quốc Khánh nhấn mạnh.
Đồng thời cho biết, tỉnh Lào Cai xác định để trở thành trung tâm kết thì phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông là một trong những lĩnh vực đột phá. Theo đó, Lào Cai đã tập trung nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, đến nay có thể nói tỉnh Lào Cai là một trong những địa phương có mạng lưới giao thông thuận lợi, đa dạng.
Cụ thể, các tuyến Quốc lộ phân bố rộng khắp, tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai liên kết với vùng Thủ đô, tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai - Côn Minh đã có phương án nâng cấp lên khổ lồng 1,435m, đẩy mạnh phát triển tuyến đường thủy nội địa và đặc biệt phát triển đường hàng không với Cảng Hàng không Sa Pa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư, sẽ khởi công trong thời gian tới.
Tuy nhiên, để hiện thực được mục tiêu xây dựng Lào Cai thành trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam, Trung Quốc, đồng thời tạo động lực phát triển mạnh mẽ hơn cho khu vực Trung du, miền núi Bắc Bộ theo tinh thần của Nghị Quyết 11 của Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch thường trực tỉnh Lào Cai kiến nghị với Chính phủ quan tâm chỉ đạo đẩy nhanh việc triển khai các dự án lớn về hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không để thúc đẩy liên kết vùng.
Thứ nhất, đầu tư dự án đầu tư đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đoạn Yên Bái - Lào Cai theo quy mô 04 làn xe vào năm 2023 và hoàn thiện quy mô 06 làn xe theo Quy hoạch mạng lưới đường bộ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 2030, do đây là tuyến đường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của tỉnh Lào Cai cũng như khu vực Tây Bắc. Trong khi đó, đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai đoạn Yên Bái - Lào Cai chỉ có quy mô 02 làn xe nên còn nhiều bất cập, tiềm ẩn các nguy cơ mất an toàn giao thông, tốc độ khai thác thấp làm giảm hiệu quả khai thác và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh Lào Cai nói riêng cũng như của các tỉnh khu vực Tây Bắc nói chung.
Thứ hai, hỗ trợ tỉnh Lào Cai hoàn thành và đưa vào khai thác cảng hàng không Sa Pa đặt tiêu chuẩn cảng hàng không cấp 4C, công suất 3,0 triệu hành khách/năm trước năm 2030.
Phó Chủ tịch tỉnh Lào Cai nhấn mạnh: “Cảng Hàng không Sa Pa được đầu tư, đưa vào hoạt động sẽ có sức lan tỏa rất lớn đối với tỉnh Lào Cai nói riêng, khu vực Tây Bắc và cả nước nói chung, từng bước góp phần hoàn thiện hạ tầng giao thông, thúc đẩy liên kết vùng của Lào Cai với các địa phương của Việt Nam và vùng Tây Nam rộng lớn của Trung Quốc.”
Thứ ba, sớm cho nghiên cứu quy hoạch dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng khổ đường 1.435mm, vì đây là tuyến đường có ý nghĩa rất lớn đối với việc kết nối vận chuyển, giao lưu, thúc đẩy kinh tế giữa các tỉnh vùng duyên hải Bắc bộ, khu vực Hà Nội và các tỉnh khu vực Tây Bắc. Đồng thời, kết nối vận tải đường sắt với Trung Quốc và từ đó kết nối với đường sắt các nước Á - Âu.
Thứ tư, hoàn thành xây dựng tuyến nối đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai với Hà Giang (CT.12) theo quy mô 4 làn xe. Nghiên cứu giải pháp huy động nguồn lực để triển khai sớm cao tốc Bảo Hà (Lào Cai) - Lai Châu (CT.13) theo quy mô 04 làn xe.
Thứ năm, hoàn thiện các tuyến quốc lộ gồm: QL.70, QL.4, QL.4D, QL.4E, QL.279 và các tuyến quốc lộ kết nối với các tuyến quốc lộ đi qua tỉnh theo quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, cải tạo, nâng cấp hạ tầng giao thông kết nối giữa Lào Cai với các trung tâm kinh tế lớn của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
>>LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ: Cơ hội từ phát triển kinh tế rừng bền vững
CƠ HỘI TỪ PHÁT TRIỂN KINH TẾ RỪNG BỀN VỮNG
Phát biểu tại Diễn đàn, ông Nguyễn Văn Sơn - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Tuyên Quang cho biết, trong bối cảnh khó khăn hiện nay, diến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng hạn hẹp, chuyển dịch kinh tế theo hướng kinh tế xanh đang là xu hướng của toàn cầu.
Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Trong Nghị quyết (NQ) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 13 của Đảng là chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý khai thác sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; kiên quyết loại bỏ các dự án làm ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân là mục tiêu hàng đầu.
Đặc biệt NQ11 của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện NQ11 xác định phương hướng phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh vùng trung du, miền núi Bắc Bộ đến năm 2030 tầm nhìn đến 2045 xác định vùng trung du miền núi Bắc Bộ là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện. Đây là tư duy đổi mới, mang lại tầm nhìn phát triển rõ cho vùng.
Thực hiện chủ trương trên, Tuyên Quang cụ thể hóa bằng các chương trình hành động và NQ cụ thể. Trong bối cảnh khó khăn của dịch bệnh, suy giảm kinh tế toàn cầu, tỉnh vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 9% trong vòng 5 năm trở lại đây. GDP bình quân đầu người từ 2005 đến nay tăng lên 11 lần.
Bên cạnh đó, Tuyên Quang đã phát huy sức mạnh, ưu thế trong phát triển kinh tế rừng. Tuyên Quang có khoảng 448 nghìn hecta đất lâm nghiệp, chiếm 76% đất tự nhiên với độ che phủ rừng đứng thứ 2 cả nước và luôn duy trì trên 65%. Đáng chú ý, rừng cấp chứng chỉ rừng bền vững để phục vụ xuất khẩu gỗ sang các nước phát triển chiếm 48.300 hecta.
Với những lợi thế của tỉnh, Tuyên Quang đã coi phát triển kinh tế rừng bền vững là nhiệm vụ chiến lược trong phát triển kinh tế. Tập trung kiểm soát chặt chẽ với tinh thần rừng đặc dụng phải bảo vệ, đảm bảo giữ vững diện tích rừng đặc dụng nhằm phát huy giá trị cảnh quan rừng đặc dụng làm du lịch.
“Với xu thế của ngành du lịch đang dần chuyển sang du lịch rừng, cùng ưu thế có nhiều di tích lịch sử quan trọng, Tuyên Quang đang triển khai các dự án khai thác rừng đặc dụng để phát triển du lịch”, ông Sơn nói.
Với rừng phòng hộ, Tuyên Quang đang tập trung trồng cây dược liệu dưới tán rừng phòng hộ. Hiện Tuyên Quang đang sở hữu 1000 hecta cây dược liệu trồng trong rừng phòng hộ lĩnh vực này đang thu hút nhiều sự quan tâm của các doanh nghiệp quốc tế trong lĩnh vực dược liệu. Đây cũng là hướng đi mới nhằm phát triển rừng bền vững và nâng cao thu nhập của người dân.
Với việc sở hữu 190 nghìn hecta rừng sản xuất, Tuyên Quang đang triển khai các hình thức khai thác như trồng 2 cây chặt 1 cây để đảm bảo tính bền vững của rừng sản xuất. Đồng thời, ông Sơn cho biết, Tuyên Quang đang có 8 nhà máy chế biến giấy, cũng như các sản phẩm về gỗ chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường phát triển.
Ông Sơn cho biết, tỉnh Tuyên Quang nói riêng và các tỉnh thuộc vùng Bắc Bộ vẫn còn tồn tại 3 điểm nghẽn lớn đang cần tập trung cao độ là Quy hoạch, Hạ tầng và Nâng cao năng lực cạnh tranh.
Hiện nay, Tuyên Quang còn nhiều khó khăn. Nỗ lực trong 2 năm gần đây làm đường cao tốc kết nối Nội Bài - Lào Cai với Tuyên Quang và dự kiến trong năm nay sẽ được khánh thành, và dự kiến năm 2025 có tuyến đường xuyên qua tỉnh Tuyên Quang, đồng thời triển khai những tuyến đường kết nối ngang để kết nối với các địa phương khác như Yên Bái, Phú Thọ, Hà Giang để giải quyết vấn đề hạ tầng liên kết vùng, mang lại cơ hội phát triển cho các tỉnh vùng núi Bắc Bộ
Mặt khác, ông Sơn cũng đề nghị, các Bộ, ban ngành cần chú ý đến 2 nút thắt của địa phương là bảo vệ rừng đặc hộ và rừng đặc dụng. Hiện nay theo chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số đang khoán cho người dân bảo vệ khoảng 300-400 nghìn/hecta 1 năm. Tuy nhiên điều này sẽ không đảm bảo sinh kế cho người dân, khó giữ được rừng.
Do đó, ông Sơn kiến nghị có thể nâng mức khoán cho người dân lên 800-1 triệu/ hecta rừng 1 năm để đảm bảo sinh kế cho người dân.
Hiện nay, tiềm năng thương mại về hấp thụ và lưu giữ các bon của rừng là rất lớn. Nhiều doanh nghiệp và tổ chức đã đề nghị bán chứng chỉ các bon. Nhưng hiện chưa có hành lang pháp lý cho việc phát hành chứng chỉ các bon và tham gia thị trường các bon để giảm phát thải nhà kính thông qua các nỗ lực hạn chế suy thoái rừng.
Ông Sơn cũng kiến nghị các bộ ngành tham mưu cho chính phủ sớm có khung khổ pháp lý cho vấn đề này để tỉnh có thêm phần nguồn lợi từ phát hành chứng chỉ các bon để hỗ trợ người dân, từ đó phát triển rừng bền vững.
CƠ CHẾ LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN CHO DOANH NGHIỆP
Là tổ chức quốc gia đại diện cộng đồng doanh nghiệp Việt, VCCI luôn khẳng định: Doanh nghiệp vững mạnh, quốc gia thịnh vượng. Và để làm được điều này, hơn lúc nào hết, hành lang pháp lý và môi trường kinh doanh phải thật sự thông thoáng.
Trong những năm qua, VCCI đã xây dựng và công bố năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Đây là chỉ số đo lường và đánh giá chất lượng điều hành kinh tế, mức độ thuận lợi, thân thiện của môi trường kinh doanh và nỗ lực cải cách hành chính của chính quyền các tỉnh, thành phố tại Việt Nam. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Phiên thảo luận với chủ đề "Cơ chế liên kết phát triển cho doanh nghiệp" đã phân tích, đưa ra các khuyến nghị nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc phát sinh, giúp các doanh nghiệp hoạch định chính sách, chiến lược trong kinh doanh trong thời gian tới. Nhà báo Nguyễn Linh Anh – Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp điều phối phiên.
Phát biểu tại phiên thảo luận, ông Trương Đức Trọng - Chuyên gia dự án PCI, Ban pháp chế VCCI cho biết, một nhà đầu tư khi đến với địa phương cần rất nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng cho đến các vấn đề về chính sách và các hoạt động tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Vì vậy, môi trường đầu tư kinh doanh tại khu vực Trung du và miền núi Bắc Bộ rất được quan tâm.
Trong khu vực, các yếu tố về vị trí địa lý chưa thực sự thuận lợi, bởi vì địa hình các tỉnh phần lớn bị chia cắt bởi đồi núi và các địa hình cao, tương đối khó khăn cho cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế. Ngược lại, chúng ta có những thuận lợi để phát triển các loại hình nông, lâm nghiệp, đặc biệt là trồng các loại cây công nghiệp cận nhiệt và ôn đới, phù hợp trong việc phát triển kinh tế của địa phương trong tương lai.
Ngoài ra, các tỉnh miền núi Bắc bộ còn có thế mạnh về khoáng sản, giàu tài nguyên như các mỏ than, kẽm, chì, quặng và đất hiếm - một trong những loại tài nguyên quan trọng trong ngành sản xuất công nghệ cao như tại Lai Châu. Đặc biệt là tài nguyên về thủy điện với hệ thống thủy điện dày đặc, là khu vực tiềm năng để khai thác nguồn lợi này.
Tuy nhiên, hạn chế mà các vị lãnh đạo nhiều địa phương đã đề cập nhiều nhất đó là cơ sở hạ tầng. Trong khảo sát PCI của VCCI, chỉ số cơ sở hạ tầng của khu vực miền núi Bắc bộ có điểm số thấp nhất so với các khu vực khác trên toàn quốc, là một trong những bất lợi lớn trong việc thu hút nhà đầu tư đến địa phương.
“Chúng tôi nhận thấy, một số khó khăn chính của cơ sở hạ tầng là khu công nghiệp hạn chế, chất lượng đường bộ chưa có bước chuyển biến đáng kể, chất lượng cung cấp điện còn rất nhiều vấn đề, nhất là trong năm nay khi có tình trạng mất điện trên diện rộng ở nhiều địa phương. Cùng với đó, chất lượng viễn thông và Internet cũng không cao, chỉ có hai địa phương trong vùng thực sự có lợi thế, tiến bộ đáng kể về mặt hạ tầng trong năm qua đó là Bắc Giang và Thái Nguyên. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được khi đây là hai trung tâm thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong thời gian gần đây và có sự đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng”. ông Trương Đức Trọng phân tích.
Theo vị chuyên gia, một yếu tố nữa tất được nhà đầu tư quan tâm đó là điều kiện kinh tế gồm quy mô thị trường, thu nhập dân cư, sự phát triển các chuỗi cung ứng... Có thể thấy, đây là một điều bất lợi của các tỉnh miền núi Bắc bộ khi GDP bình quân đầu người theo thống kê trong vùng chỉ nhỉnh hơn khu vực Tây Nguyên.
Còn nhiều chỉ tiêu kinh tế khác của vùng cũng tương đối khiêm tốn so với các vùng khác, như số doanh nghiệp đang hoạt động, số lượng các siêu thị, chợ, trung tâm thương mại, các khu công nghiệp, khu chế xuất... Để đánh giá mức độ phát triển của địa phương thì cũng chỉ hơn khu vực Tây Nguyên.
Riêng về mức độ phát triển của doanh nghiệp địa phương trên địa bàn tương đối thấp so với mức độ trung bình cả nước. Nếu so với một khu vực gần đó là Đồng bằng sông Hồng thì cũng thấp hơn khá nhiều, có một số địa phương có giá trị tương đối gồm Lào Cai, Thái Nguyên với khoảng 4 doanh nghiệp/1000 dân, gần với giá trị trung bình của vùng Đồng bằng sông Hồng (6 doanh nghiệp/1000 dân).
Đáng chú ý, thu hút vốn FDI cũng không phải thế mạnh của địa phương khi sự chênh lệch rất rõ rệt. Qua khảo sát, hiện nay chỉ có Bắc Giang là tam giác thu hút vốn FDI của vùng cùng với Thái Nguyên, Phú Thọ. Ở các địa phương còn lại có rất ít các dự án FDI.
“Chúng tôi tính toán số lượng doanh nghiệp tích lũy từ năm 1988 sẽ thấy, Bắc Giang là một trong những điểm sáng trong thời gian gần đây, còn Thái Nguyên thì có dự án đầu tư lớn từ Samsung, góp phần vào kết quả của địa phương. Các tỉnh như Điện Biên, Lai Châu, Bắc Kạn thì số dự án đầu tư nước ngoài rất ít ỏi.
Một điểm nữa chúng tôi muốn đánh giá là chất lượng lao động địa phương cũng rất được các nhà đầu tư quan tâm, trong đó có số lượng và chất lượng. Điểm tích cực là về mặt số lượng, lao động của các tỉnh trong khu vực miền núi Bắc bộ khá dồi dào, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại địa phương cao hơn mức trung bình của cả nước. Tuy nhiên, một thách thức với các địa phương trong vùng đó là vấn đề người lao động có xu hướng di cư đi khỏi địa phương. Vấn đề này biểu hiện rõ rệt ở một số địa phương như Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng.
Đáng chú ý, tỷ lệ lao động tại địa phương đáp ứng được nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp không cao. Nếu trung bình toàn quốc là 39% vẫn là con số tương đối thấp, thì ở các địa phương trong khu vực miền núi Bắc bộ còn thấp hơn. Điều đó cho thấy vấn đề chất lượng lao động là một trở ngại địa phương, dẫn đến rất nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn lao động”, ông Trọng nêu.
Đại diện Ban Pháp chế VCCI cũng cho biết thêm, về cải cách thủ tục hành chính, có một xu hướng tích cực đó là điểm PCI trung bình vùng đã có sự cải thiện qua thời gian. Đây cũng là xu hướng chung của toàn quốc từ năm 2014-2022 và hoàn toàn phù hợp với khoảng một thập kỷ gần đây, khi chúng ta có nhiều cố gắng về cải cách hành chính, đổi mới, giải quyết thủ tục cho doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, nếu nhìn nhận các chỉ số, thành phần cụ thể, thì khu vực miền núi Bắc bộ còn có những bất lợi. Thứ nhất, việc tiếp cận đất đai khó hơn so với khu vực khác trên toàn quốc. Thứ hai là chi phí thời gian phản ánh về hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính. Thứ ba là chi phí không chính đang xếp cuối so với toàn quốc. Thứ tư, đánh giá về cạnh tranh bình đẳng, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp cũng xếp cuối cùng so với các địa phương và vùng khác trên toàn quốc.
Một trong những hạn chế về PCI mà VCCI muốn nhận diện là đánh giá chính quyền các tỉnh, thành phố có sự linh hoạt hỗ trợ doanh nghiệp địa phương hay có cam kết hỗ trợ môi trường kinh doanh không, thì có sự chênh lệch rất lớn giữa các địa phương trong vùng. Điển hình có những địa phương rất tốt như Thái Nguyên, Bắc Giang nhưng nhiều địa phương vẫn còn nhiều việc phải làm trong thời gian tới để tiếp tục cải thiện.
Đặc biệt, các doanh nghiệp cũng đề cập nhiều đến vấn đề thiếu quỹ đất sạch, giải phóng mặt bằng chậm và họ không có thông tin cần thiết về đất đai, quy hoạch hoặc có những câu hỏi liên quan đến thủ tục hành chính đưa ra với địa phương nhưng không được phản hồi đầy đủ. Đây là một trong những vấn đề khá nhức nhối.
Thêm vào đó, phiền hà trong thủ tục hành chính vẫn tồn tại, ví dụ tại tỉnh Hòa Bình là địa phương đứng ở giữa trong vùng, vấn đề về thuế, phí, giải phóng mặt bằng, bảo hiểm xã hội, phòng cháy chữa cháy,... là những lĩnh vực mà doanh nghiệp phản ánh có nhiều phiền hà nhất. Trong năm qua, việc thanh tra thuế kéo dài, những chi phí không chính thức khá là nhức nhối.
Việc thanh kiểm tra được Bắc Giang triển khai tốt nhất trong khu vực, nhưng ngay cả địa phương tốt nhất cũng có những vấn đề liên quan đến phiền hà, cụ thể là về thanh tra xây dựng, 31% doanh nghiệp cho biết điều này.
Chi phí không chính thức cũng là vấn đề mà nhiều năm nay các tỉnh miền núi Bắc bộ chưa có sự cải thiện đáng kể. Đơn cử như tỉnh Yên Bái, là địa phương đứng giữa bảng xếp hạng của PCI trong khu vực, việc trả chi phí không chính thức là phổ biến như trong quản lý thị trường, thanh tra kiểm tra xây dựng, thanh kiểm tra phòng cháy chữa cháy, môi trường...
“Để giải quyết các vấn đề, chúng tôi hy vọng các địa phương sẽ thúc đẩy, cố gắng chuyển đổi số, vì đây là một trong những việc sẽ giúp cho địa phương không chỉ giảm chi phí tuân thủ, giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính mà còn giảm số lượng giấy tờ để hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp tốt hơn”, ông Trong đề xuất.
Về kiến nghị, ông Trương Đức Trọng cho rằng, chúng ta cần phải tăng cường liên kết ngành trong các hoạt động về môi trường đầu tư kinh doanh tại địa phương.
Gần đây nhất, PCI cũng đã tham gia làm cầu nối hỗ trợ cho 4 tỉnh thành phố gồm Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên thực hiện sáng kiến Kết nối trục cao tốc phía Đông. Từ đó sẽ tạo ra không gian phát triển mới cho 4địa phương trong vùng, biến đây thành cực phát triển kinh tế của miền Bắc.
Có thể thấy, các tỉnh miền núi Bắc bộ đã xây dựng khối liên kết như vậy từ lâu, nhưng chúng ta cần làm sâu sắc hơn mối liên kết đó, để trong thời gian tới có thể tăng cường liên kết giữa các vùng ở một số lĩnh vực sau:
Thứ nhất, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Có những địa phương đã có mô hình rất tốt như Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai thì có thể lan tỏa sang những địa phương còn lại trong vùng; chia sẻ kinh nghiệm.
Thứ hai, liên kết trong thương mại. Đôi khi một địa phương không đủ mà cần phải có một vùng nhiều địa phương cùng tham gia.
Thứ ba, liên kết về hạ tầng giao thông, logistics và phát triển chuỗi cung ứng. Đây là một đề tài rất rộng cần thảo luận thêm, nhưng cũng rất quan trọng đặc biệt là vấn đề về giao thông.
Thứ tư, liên kết trong đề xuất chính sách. Một địa phương có tiếng nói chưa đủ, nhưng nhiều địa phương chắc chắn sẽ được Chính phủ, các bộ ngành lắng nghe nhiều hơn.
Thứ năm, liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực, liên kết bảo vệ môi trường cũng là một chủ đề cần thiết.
“Đây là những chủ đề liên kết rất quan trọng để thúc đẩy môi trường kinh doanh tại địa phương đồng thời, chúng ta cần có tầm nhìn xa hơn đó là phát triển bền vững. Việt Nam là một trong những quốc gia có cam kết phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050, điều này sẽ không thể làm được nếu không có sự tham gia tích cực của các địa phương. Vì vậy ngay từ bây giờ, các địa phương cần lồng ghép mục tiêu này trong chiến lược phát triển của mình”, đại diện Ban Pháp chế VCCI kiến nghị.
Cho ý kiến tại phiên thảo luận, ông Hoàng Trường Giang - Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế Vùng và Địa phương - Ban Kinh tế Trung ương thông tin: Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Bên cạnh đó, trong Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2022 cũng đã nói đến một số điểm quan trong của vùng bao gồm: Về mục tiêu, đến năm 2030 vùng trung du và miền núi phía Bắc là vùng phát triển xanh, bền vững và toàn diện, trên cơ sở tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng liên kết nội vùng và với vùng đồng bằng sông Hồng, Thủ đô Hà Nội.Đồng thời, phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo và năng lượng; nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ, đặc sản; kinh tế cửa khẩu, du lịch; bảo vệ, khôi phục rừng, nhất là rừng đầu nguồn; đẩy mạnh trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững; khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản; bảo vệ môi trường, an ninh sinh thái và an ninh nguồn nước.
Mục tiêu đặt ra một số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước; bản sắc văn hóa các dân tộc được bảo tồn và phát huy; đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được cải thiện và nâng cao; quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc. Trong giai đoạn 2021-2030, tăng trưởng GRDP vùng đạt 8,0-9,0%/năm; đến năm 2030, quy mô kinh tế vùng đạt khoảng 2.100 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành), trong đó nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 12-13%, công nghiệp - xây dựng chiếm 45-46%, dịch vụ chiếm 37-38%.
Tỷ lệ đô thị hóa đạt khoảng 40%. Cơ cấu kinh tế cho thấy, vùng trung du và miền núi Bắc Bộ sẽ thiên về công nghiệp xây dựng và dịch vụ là chủ yếu.Về giải pháp, Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2022 nhấn mạnh 5 vấn đề gồm đổi mới về tư duy phát triển nhất là liên kết vùng và tiểu vùng, cơ chế chính sách đặc thù phân bổ nguồn lực khai thác tối đa tiềm năng của từng địa phương trong vùng và toàn vùng; phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, tính chủ động sáng tạo, khát vọng vươn lên để tăng trưởng kinh tế vùng cao hơn bình quân chung của cả nước; trên cơ sở đổi mới về tư duy, xây dựng hoàn thiện thể chế chính sách phát triển vùng, đặc biệt là quy hoạch vùng giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn 2030 theo hướng xanh, bền vững và toàn diện, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện đầu tư kinh doanh thu hút mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển. Đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng và chỉnh đốn đảng, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh; Căn cứ vào NQ11 của BCT, cả hệ thống chính trị xây dựng chương trình hành động để thực hiện NQ11 của BCT.
Tuy nhiên, ông Giang cho rằng, 3 vấn đề lớn với vùng liên quan nhiều đến doanh nghiệp hiện nay là công tác quy hoạch còn chậm, số tỉnh phê duyệt quy hoạch chung còn ít; Cơ sở hạ tầng, nhất là các đường giao thông kết nối các tỉnh và địa phương còn hạn chế; Cải cách hành chính gắn với cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; Phê duyệt chủ trương các dự án đầu tư vẫn còn chậm. Do đó, ông Giang đề nghị, các cấp các ngành và địa phương cần chủ động hơn nữa, cùng đồng hành với doanh nghiệp trong việc tháo gỡ những điểm nghẽn, từ đó mở rộng luồng đầu tư vào vùng.
Chia sẻ tại Diễn đàn “Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy phát triển bền vững vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ”, ông Phạm Hoài Chung, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông Vận tải, Bộ Giao thông Vận tải chia sẻ: “Đại lộ sinh đại phú”, vậy làm sao để hoàn thiện hạ tầng giao thông, tạo động lực phát triển kinh tế vùng?
Theo đó, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải nhận định, bức tranh chung để kết nối vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ với các vùng động lực kinh tế còn hạn chế.
Do đó, để phát huy thế mạnh của Vùng cần phải xác định việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông (quốc gia, vùng, địa phương) phải đồng bộ và phù hợp với đặc điểm, tiềm năng, lợi thế và định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế của Vùng để giao thông vừa là động lực thúc đẩy, vừa là cơ hội đầu tư phát triển song hành với tiềm năng kinh tế của Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Phát triển hạ tầng giao thông của Vùng ngoài các mục tiêu an sinh xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh thì đến nay đã được nâng lên tầm nhận thức mới, đó là trở thành động lực để kết nối các địa phương cùng liên kết phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế là thế mạnh, là đặc thù, là tiềm năng của vùng. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, đặc biệt là giao thông kết nối vùng là mục tiêu và cũng là nhiệm vụ, giải pháp có tính trọng tâm, đột phá làm tiền đề nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh trong vùng. Điều này thể hiện rất rõ trong tất cả 14 quy hoạch tỉnh đã và đang triển khai.
Ngoài những điểm đến là các đô thị trung tâm của các tỉnh, các không gian kinh tế quan trọng của Vùng sẽ không thể tách rời hệ thống giao thông vận tải, được xác định là các khu kinh tế cửa khẩu, các khu, điểm du lịch và những khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt lưu ý đến những ngành như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông sản.
Từ thực tế này, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải đề xuất 3 loại hình mà trọng tâm 2 loại hình giao thông được coi là phù hợp nhất để tập trung ưu tiên đầu tư sớm đó là đường bộ cao tốc và cảng hàng không.
Thứ nhất, về phát triển hệ thống đường cao tốc, ông Chung nhấn mạnh, đường bộ cao tốc là phương thức vận tải nhanh, khối lượng lớn sẽ tạo điều kiện kết nói vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ với Vùng thủ đô Hà Nội theo mô hình hướng tâm sẽ liên kết các địa phương với nhau đi lên các cửa khẩu và về với vùng thủ đô Hà Nội để đi ra cảng biển và các vùng khác trong cả nước, phục vụ hành khách, hàng hóa ở các chặng đường ngắn và trung bình, đồng thời sẽ kết nối đến các phương thức vận tải đường dài như đường sắt, đường biển.
Đặc biệt, lãnh đạo Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải nhấn mạnh đường bộ cao tốc là loại hình giao thông cần được ưu tiên hơn vì sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho đại đa số người dân, doanh nghiệp trong việc tiết kiệm được nhiều thời gian di chuyển, kịp thời đưa sản phẩm, dịch vụ đến với thị trường.
Theo Đề án Thực hiện xây dựng đường bộ cao tốc giai đoạn 2021 - 2025 và định hướng đến năm 2030, kết quả tính toán trên một số tuyến đường cao tốc đã đầu tư trong giai đoạn 2010 – 2020 khi có tuyến cao tốc đi qua địa bàn thì tốc độ tăng trưởng GRDP của từng địa phương sẽ tăng từ 1,1-2,0%/năm; tạo công ăn việc làm thêm; thúc đẩy thu hút đầu tư.
Cụ thể theo nghiên cứu của tư vấn đối với 04 đoạn, tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai; Hà Nội - Hải Phòng; Pháp Vân - Cầu Giẽ - Ninh Bình; Tp. Hồ Chí Minh - Trung Lương, kết quả lượng hóa GRDP của các địa phương nơi có tuyến cao tốc đi qua gồm: Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hưng Yên , Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Tp. Hồ Chí Minh, Long An và Tiền Giang trong 2 kịch bản tăng trưởng GRDP trong chuỗi thống kê với kịch bản trước khi có cao tốc và sau khi có cao tốc trong giai đoạn 2010-2018 cho thấy lợi ích khi có tuyến đường bộ cao tốc đi qua sẽ làm tăng GRDP của các tỉnh: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, lợi ích khi có tuyến cao tốc đi qua đóng góp tăng 1,1% GRDP (~ 12.099 tỷ đồng); Tuyến Nội Bài - Lào Cai, tăng 2,1% GRDP (~ 19.618 tỷ); Tuyến Pháp Vân - Cầu Giẽ - Ninh Bình, tăng 2,0% GRDP (~ 17.495 tỷ); (4) Tuyến TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương, tăng 0,9% GRDP (~ 10.839 tỷ).
Dù tầm quan trọng của đường bộ cao tốc là vậy, tuy nhiên ông Chung chia sẻ, việc kêu gọi đầu tư xã hội – đầu tư PPP vào loại hình này ở vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ còn khó khi nhà đầu tư nhìn hiệu quả tài chính phụ thuộc vào lưu lượng xe ở vùng.
“Nếu nhìn hiệu quả tài chính của dự án đường bộ cao tốc phụ thuộc vào lưu lượng xe của vùng thì sẽ rất khó. Do đó, các tỉnh có thể kêu gọi doanh nghiệp theo hướng gắn với hệ sinh thái, có chuỗi giá trị đầu tư thông qua hệ sinh thái gắn kết với dự án đầu tư giao thông để phát huy giá trị như đầu tư hệ sinh thái du lịch, nghĩ dưỡng, hoặc khai thác khoáng sản”, ông Phạm Hoài Chung đề xuất.
Thứ hai, để kết nối nhanh và thu hút đầu tư với các tỉnh của vùng, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải nhận định phải đẩy mạnh hệ thống cảng hàng không.
Trước hết, về các cơ hội tham gia đầu tư cảng hàng không trong Vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không sân bay toàn quốc 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 tại quyết định số 648/QĐ-TTg ngày 7 tháng 6 năm 2023. Theo đó, trong Vùng sẽ có 3 cảng hàng không trong lộ trình đầu tư dự kiến đến 2030 cần được kêu gọi đầu tư: Dự án CHK Sa Pa, tỉnh Lào Cai, TMĐT khoảng 4.200 tỷ đồng; Dự án CHK Lai Châu, tỉnh Lai Châu, TMĐT khoảng 4.350 tỷ đồng; Dự án CHK Nà Sản, tỉnh Sơn La, TMĐT khoảng 5.688 tỷ đồng.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể xem xét tham gia đầu tư kinh doanh bến tàu khách (cùng với các dịch vụ du lịch) tại các vùng hồ lớn trong Vùng như vùng hồ thủy điện Hòa Bình, thủy điện Sơn La, thủy điện Lai Châu, hồ Na Hang ở Tuyên Quang, hồ Ba Bể ở Bắc Kạn, hồ Núi Cốc ở Thái Nguyên, hồ Cấm Sơn, Khuôn Thần ở Bắc Giang…
“Các doanh nghiệp đầu tư dự án hạ tầng giao thông cảng hàng không, sân bay yêu cầu là các doanh nghiệp mạnh, có chuỗi giá trị đầu tư thông qua hệ sinh thái gắn kết với dự án đầu tư giao thông để phát huy giá trị như đầu tư hệ sinh thái du lịch, nghĩ dưỡng, hoặc khai thác khoáng sản….hoặc khu đô thị sân bay”, ông Phạm Hoài Chung đề xuất.
Đồng thời chia sẻ, loại hình vận tải thứ ba cần được vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ chú trọng là đầu tư đường sắt kết nối.
“Hiện 90% vận tải của vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ phụ thuộc vào vận tải đường bộ. Do đó, cần quan tâm đẩy mạnh phát triển hạ tầng đường sắt để kết nối với vận tải biển giữa vùng và các vùng lân cận, tạo thuận lợi cho lưu thông và nâng cao giá trị hàng hoá của vùng”, ông Chung chia sẻ.
Nhắc lại thách thức trong việc kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư vào hạ tầng giao thông của vùng là khó, ông Phạm Hoài Chung cũng cho rằng, các tỉnh cần quan tâm phát triển cảng cạn (ICD) và các trung tâm logistics là “cánh tay nối dài” của cảng biển để thúc đẩy phát triển kinh tế của vùng. Có vậy, việc kết nối giữa cửa khẩu kinh tế với cảng biển mới được thúc đẩy.
“Muốn đi nhanh chúng ta đi một mình nhưng muốn đi nhanh phải đi cùng nhau, muốn phát triển nhanh và bền vững vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ, các tỉnh, các doanh nghiệp phải gắn kết hơn nữa”, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Chiến lược và Phát triển Giao thông vận tải nhấn mạnh.
>>LIÊN KẾT DOANH NGHIỆP VÙNG TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI BẮC BỘ: Cơ hội đầu tư hoàn thiện hạ tầng giao thông
Có mặt tại phiên thảo luận, TS. Nguyễn Văn Hội - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương - Bộ Công Thương đề xuất một giải pháp để phát triển sản xuất theo hướng tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, ổn định và bền vững theo một số định hướng.
Thứ nhất, phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ gắn kết chặt chẽ với các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn.
Thứ hai, ưu tiên phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ tại các khu vực đã có tích tụ công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm hoặc có lợi thế nổi bật về vùng nguyên liệu, hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghiệp, lao động, khoa học công nghệ, có khả năng trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng ngành chế biến nông sản, thực phẩm của vùng.
Bên cạnh đó, ưu tiên phát triển chế biến thực phẩm tại khu vực các tỉnh Sơn La, Phú Thọ; chế biến nông sản tại khu vực các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ. Từ đó hình thành động lực tăng trưởng, tác động lan tỏa, mở rộng phạm vi phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ ra các khu vực xung quanh mà không phụ thuộc vào địa giới hành chính.
Thứ ba, tăng cường liên kết vùng, xây dựng cơ chế điều phối, hợp tác, trao đổi thông tin giữa các địa phương trong vùng trong việc phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Trọng tâm là điều phối hoạt động phát triển vùng nguyên liệu, thu hút đầu tư vào chế biến.
Thứ tư, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực của các tác nhân tham gia vào phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ, bao gồm doanh nghiệp chế biến; các cơ sở nông nghiệp; các ngành công nghiệp và tổ chức liên quan tại vùng.
Thứ năm, thu hút các dự án phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ gắn kết với xây dựng, phát triển vùng nguyên liệu bền vững; có công nghệ hiện đại, tích kiệm nguyên liệu, thân thiện môi trường và tạo ra sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, phù hợp với nhu cầu của thị trường; có đủ năng lực xây dựng và quản lý chuỗi giá trị từ sản xuất nông nghiệp, chế biến đến tiêu thụ.
Cơ cấu lại các cơ sở chế biến hiện hữu theo hướng nâng cấp công nghệ, tập trung chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị tăng thêm của sản phẩm cuối cùng.
Thứ sáu, trong công nghiệp chế biến thực phẩm, gắn kết chặt chẽ từ khâu giống, nuôi trồng, khai thác, bảo quản sau thu hoạch đến sản xuất, chế biến, thương mại. Khuyến khích các cơ sở sản xuất thực phẩm tham gia các chương trình sản xuất sạch hơn; sản phẩm an toàn, sạch, xanh và hữu cơ; hệ thống quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm đạt tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế (theo VietGap, GlobalGap, hữu cơ, ...).
Thứ bảy, nâng cao tỷ lệ chế biến sản phẩm nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm chế biến từ chế biến thô sang sản phẩm chế biến tinh, tạo ra giá trị gia tăng cao, đáp ứng các điều kiện về an toàn thực phẩm, các tiêu chí kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa.
Thứ tám, khuyến khích đầu tư, phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ trên địa bàn. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao công nghệ; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn. Tăng cường hợp tác, phát triển khoa học công nghệ với các cơ sở ở vùng đồng bằng sông Hồng, nhất là thủ đô Hà Nội.
Đồng thời, tăng cường liên kết giữa các tác nhân tham gia phát triển cụm liên kết doanh nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm vùng trung du miền núi Bắc Bộ. Tăng cường liên kết dọc giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ hàng hóa nông sản; liên kết ngang giữa doanh nghiệp, nông dân, hợp tác xã với các doanh nghiệp hỗ trợ, các cơ sở nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, giáo dục đào tạo.
Bà Bùi Thanh Hằng – Chuyên gia ươm tạo doanh nghiệp KHCN – Trung tâm ươm tạo và hỗ trợ Doanh nghiệp KHCN - Cục phát triển doanh nghiệp KHCN (Bộ KHCN) cho biết, hiện nay, các chuyên gia diễn giả nhắc nhiều đến câu chuyện liên quan đến cơ sở hạ tầng, phát triển bền vững và thu hút FDI.
Bà Hằng chia sẻ về đổi mới sáng tạo với một số ý cụ thể như sau: Cục Phát triển thị trường đang chủ trì các hoạt động liên quan đến khởi nghiệp của Bộ Khoa học và Công nghệ và cũng có những hoạt động liên quan đến ngày hội Khởi nghiệp Đổi mới sáng tạo (Techfest) hàng năm.
Gần đây nhất Cục cũng đang thúc đẩy phát triển đổi mới sáng tạo mở, trong các hoạt động liên quan có nhiều kết nối liên kết với các tập đoàn, tổ chức quốc tế và viện, trường.Hiện nay ở các nước, đổi mới sáng tạo được nhắc đến rất nhiều, ví dụ như Singapore, Chính phủ nước này đã đầu tư 26 tỷ USD cho đổi mới sáng tạo, khi họ nhận thấy tiềm năng và giá trị lợi ích mang lại cho Chính phủ.
Hay tại Hàn Quốc, cũng đầu tư hơn 100 triệu USD cho mảng đổi mới sáng tạo và đưa những doanh nghiệp Hàn Quốc sang Việt Nam để làm việc và sẵn sàng đầu tư cho các doanh nghiệp Việt Nam sang Hàn Quốc. Từ câu chuyện đó, chúng ta sẽ thấy rằng đổi mới sáng tạo đang là hướng đi giúp nâng cao năng suất lao động, tạo ra giá trị thặng dư mới cho địa phương.
“Trước đây, tôi cũng đã có những hoạt động trao đổi với tỉnh Phú Thọ, để có hướng đi thúc đẩy về hoạt động khởi nghiệp. Về bài toán liên quan đến tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, chúng tôi cũng đã có cuộc làm việc thu hút một số dự án của ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) vào Việt Nam. Họ cũng đặt một câu hỏi rất lớn là, bản thân ADB đang đầu tư cho Indonesia hơn 100 triệu USD để thúc đẩy cho tài chính xanh.
Vì vậy ở Việt Nam hiện nay có nhu cầu về việc này hay không và bản thân các tỉnh, các sở ban ngành địa phương có nhu cầu nhận nguồn hỗ trợ tài chính của ADB để thúc đẩy việc này hay không, thực trạng của Việt Nam đang như thế nào?
Năm 2020, Bloomberg cũng có bài viết về việc Thái Nguyên, Bắc Giang, Bắc Ninh trong việc dịch chuyển nguồn đầu tư từ một số tập đoàn của Mỹ sang Việt Nam. Họ đưa ra một số câu chuyện liên quan đến việc “cởi mở với thế giới” dẫn đến quốc tế không biết thực trạng của Việt Nam đang như thế nào.
Một trong những vấn đề mà đổi mới sáng tạo có thể đi liền trong phát triển xanh đó là phải có những giải pháp về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Ví dụ tại Mỹ, họ đang tìm đến các công nghệ sinh học (BioTech), công nghệ làm sạch (CleanTech) hay công nghệ liên quan đến xử lý nước thải.
Bản thân người Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có rất nhiều nhân tài về những công nghệ này, vì vậy họ cũng đặt hàng ngược trở lại Việt Nam không phải chỉ áp dụng chính công nghệ đó để giải bài toán của Việt Nam mà giải bài toán của các nước khác trên thế giới.Những nguồn tài chính đang đổ về cho phát triển tài chính xanh, phát triển xanh và công nghệ trong hệ sinh thái đổi mới sáng tạo về công nghệ cũng đang định hướng cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, để hướng tới phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.
Đây là một trong những hướng đi mà các địa phương nên thử cân nhắc.Ngoài ra, kinh nghiệm của thu hút đầu tư FDI, điều gì sẽ trở thành sức hút cạnh tranh nếu chúng ta muốn thúc đẩy các khu công nghiệp tại địa phương của mình.
Vì vậy, một trong những yếu tố hiện nay chúng tôi định hướng cho các đối tác tập đoàn, đó là thúc đẩy các khu đổi mới sáng tạo, khu chế xuất công nghệ trong các khu công nghiệp. Đây đang là câu chuyện hướng đến khái niệm mới là các khu công nghiệp xanh và cũng là hướng đi thứ hai gợi mở cho các địa phương và các hoạt động liên quan đến đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp...
Ông Hà Văn Siêu - Phó Cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam cho biết, những giá trị về sinh thái, văn hóa giúp vùng sở hữu “kho báu” về tài nguyên để phát triển du lịch. Tuy nhiên, việc khai thác những tiềm năng sẵn có để phát triển du lịch vẫn chưa được nhiều.
Bên cạnh đó, trong quy hoạch phát triển du lịch ngành xác định có 16 điểm tiềm năng trở thành khu du lịch quốc gia như Đồng Văn, Sa Pa, Mộc Châu, Hồ Núi Cốc… những điểm này sẽ trở thành cực hút để hút khách du lịch nhờ những tài nguyên đặc sắc.
Để khai thác hết tiềm năng của vùng sẽ có những sản phẩm du lịch vùng miền đặc sắc. Đặc biệt, Nghị quyết11 đã mang đến những tiềm năng và yếu tố mới để khai thác tiềm năng du lịch của vùng như xu hướng xanh, đặc biệt là sau COVID-19, người tiêu dùng hướng tới rừng, thiên nhiên, các sản phẩm du lịch tốt cho sức khỏe.
Đồng thời, xu hướng kinh tế chia sẻ, ứng dụng công nghệ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp liên kết tạo hệ sinh thái du lịch liên tỉnh, liên vùng. Những cơ hội này tạo động lực cho vùng trung du và miền núi Bắc bộ phát triển du lịch mạnh mẽ trong thời gian tới.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, ông Siêu cho rằng vẫn còn những điểm nghẽn còn tồn tại như liên kết trong xúc tiến quảng bá, marketing còn yếu; nguồn nhân lực hạn chế, kết nối thị trường để mở rộng lượng khách vẫn còn lỏng lẻo…
Do đó, ông Siêu cho rằng, để phát triển hơn nữa tiềm năng du lịch vùng như có những chương trình dự án trọng điểm chung của vùng để phát triển thương hiệu du lịch vùng.
Bên cạnh đó, về phía các doanh nghiệp, ông Siêu lưu ý cần đầu tư vào du lịch hướng tới phát triển xanh, hướng vào các sản phẩm xanh; phát triển các kênh đầu tư vào các hệ sinh thái, nền tảng số để kết nối các dịch vụ của các tỉnh trong vùng, từ đó hình thành chuỗi sản phẩm du lịch kết nối với nhau. Đầu tư vào công nghệ phát triển các ứng dụng chuyên về du lịch… góp phần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của các tỉnh.
Ông Quan Đức Hoàng, Chủ tịch Hội đồng thành viên Quỹ đầu tư A+ chia sẻ, Quỹ đầu tư A+ đang quan tâm 7 tỉnh thuộc khu vực phía Bắc trong đó có Bắc Giang, Tuyên Quang thuộc vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.
“Quỹ đầu tư A+ cũng luôn quan tâm tới việc song hành và đi cùng nhau. Vai trò của các quỹ như chúng tôi là kết nối các tập đoàn, các quỹ lớn ở nước ngoài vào các doanh nghiệp, địa bàn có cơ hội đầu tư phù hợp. Chúng tôi cũng rất quan tâm tới tỉnh Tuyên Quang khi đã chú trọng tới phát triển rừng bền vững, đây là hướng đi đúng để xuất khẩu hàng hoá lâm sản sang châu Âu”, ông Quan Đức Hoàng nói.
Ông Nguyễn Hữu Thập – Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Tuyên Quang chia sẻ, hiệp hội đã thường xuyên tổ chức những chương trình gặp gỡ, giao lưu, tăng cường hợp tác giữa các thành viên.Hiệp hội đã chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ phận chuyên trách, văn phòng, Trung tâm Tư vấn pháp luật và hỗ trợ doanh nghiệp, nâng cao chất lượng hoạt động của các hội doanh nghiệp huyện, thành phố.
Đồng thời, tích cực tham gia xây dựng, phổ biến, hướng dẫn thực hiện chính sách pháp luật. Các yêu cầu của UBND tỉnh và các ngành, đều được Hiệp hội cụ thể hóa để các doanh nghiệp hội viên nghiên cứu, có ý kiến tham gia và tổ chức thực hiện, kịp thời nắm bắt những nội dung liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và hoạt động xã hội của doanh nghiệp.
Hiệp hội cũng đẩy mạnh tuyên truyền, vận động hội viên thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các định hướng, chương trình phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, chủ động, sáng tạo, mạnh dạn đầu tư sản xuất kinh doanh. Đồng thời, xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh khai thác hiệu quả tiềm năng lợi thế của tỉnh...
Tuy nhiên, ông Thập cũng cho biết, hiện nay, các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong thủ tục đầu tư dự án, đặc biệt là các dự án đầu tư, xây dựng có sử dụng đất. Các khó khăn này đến từ việc bất cập trong văn bản quy phạm pháp luật, các dự án đã bị chững lại, ảnh hưởng lớn đến doanh nghiệp.
Thế nhưng, tại Bắc Giang, thực tế là các doanh nghiệp vẫn thực hiện tốt các công tác giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư. Ông Thập cho hay: Cùng áp dụng một văn bản pháp luật, việc tỉnh Bắc Giang có thể tạo thuận lợi cho doanh nghiệp đầu tư là điểm sáng, cần có những học hỏi từ đây.
Tổng kết tại Diễn đàn, ông Hoàng Quang Phòng – Phó Chủ tịch VCCI cho biết, Diễn đàn Liên kết doanh nghiệp thúc đẩy liên kết bền vững của các tỉnh Trung du và miền núi Bắc bộ giúp chúng ta gợi mở rất nhiều vấn đề về phát triển, để nâng cao vai trò của doanh nghiệp.
Chúng ta cũng thống nhất với nhau một điểm: “Đây là vùng có tiềm năng để phát triển, nhưng sự liên kết còn chưa được chặt chẽ, sự phối kết hợp chưa được nhịp nhàng và kết quả chưa được như mong muốn, vai trò của doanh nghiệp chưa thực sự được phát huy sâu do nhiều vấn đề”.
Thông qua Diễn đàn, VCCI sẽ chắt lọc ý kiến của các chuyên gia, diễn giả và truyền đạt đến các cơ quan có liên quan về sự phát triển của vùng, những khuyến nghị cụ thể về hạ tầng, kết nối, thành lập các trung tâm cùng những vấn đề khác trong vùng cần được khơi dậy và có sự đầu tư một cách thỏa đáng.Về phía doanh nghiệp, cần nghiên cứu chuyên sâu và làm việc với các tỉnh thành trong khu vực để có quyết sách phù hợp. Nếu chần chừ, chúng ta có thể mất cơ hội.
Có thể bạn quan tâm
16:28, 27/09/2023
16:15, 27/09/2023
16:02, 27/09/2023
15:07, 27/09/2023
14:51, 27/09/2023
14:47, 27/09/2023
14:27, 27/09/2023