Tận dụng công nghệ số để minh bạch hóa carbon cùng chiến lược phát triển nguồn cung vật liệu bền vững và địa phương là con đường để ngành xây dựng “xanh hơn”.
Ngành xây dựng toàn cầu đang đứng trước một nhiệm vụ cấp bách là chuyển đổi xanh, khi mà lĩnh vực này được nhận định là chiếm tới 40% tổng lượng khí thải cacbon trên thế giới. Đối với Việt Nam, bài toán giảm phát thải các bon cần phải đi đôi với việc xây dựng chuỗi cung ứng vật liệu bền vững và địa phương hóa. Giải pháp cho thách thức kép này nằm ở sự kết hợp giữa công nghệ số và chiến lược kinh doanh tối ưu hóa nguồn nguyên liệu trong nước.
Sự tiến bộ của công nghệ, bao gồm Trí tuệ Nhân tạo (AI) và các dịch vụ đám mây, đang thay đổi hoàn toàn ngành công nghiệp xây dựng, theo lời ông Adam Peacock – Trưởng phòng Thực hành Kết cấu Công trình Xây dựng, Thailand & Global Design Centre Asia, Aurecon - trong hội thảo “Gỗ to (Mass Timber) – Giải pháp kiến tạo công trình xanh và bền vững” ngày 3/10/2025 tại TP HCM. Ông Adam Peacock chia sẻ rằng, các công cụ phần mềm bây giờ có thể tự động tính toán được lượng carbon có sẵn (embodied carbon, là lượng cacbon nằm sẵn trong vật liệu) ngay trong mô hình 3D của dự án. Carbon có sẵn thường chiếm khoảng 20% đến 25% tổng lượng carbon của một tòa nhà.
Nhờ khả năng tính toán chi tiết này, các nhà thiết kế có thể thay đổi vật liệu để tối ưu hóa, ví dụ, giúp giảm lượng carbon thải ra tới 30% như trong một dự án tại Thái Lan, hoặc thậm chí giảm 40-50% thông qua việc tối ưu hóa thiết kế. Bên cạnh đó, các chính sách tài chính cũng cần thúc đẩy chuyển đổi này. Ví dụ như thuế cacbon đang được áp dụng tại Singapore, theo đó, nếu một tòa nhà tạo ra lượng cacbon cao thì thuế sẽ cao, và việc giảm được lượng cacbon sẽ giúp giảm thuế.
Trong hành trình tìm kiếm vật liệu “xanh” hơn thay thế, gỗ khối lớn (Mass Timber) được ông Adam Peacock khẳng định là vật liệu có tính bền vững cao nhất. Gỗ chỉ thải ra khoảng 0.5kg carbon trên 1kg vật liệu, so với con số 2.2kg carbon trên 1 kg thép. Ngoài ra, gỗ nhẹ hơn và có tốc độ lắp đặt nhanh hơn, giúp tối ưu hóa kết cấu cột và móng. Khi đi vào thị trường, gỗ khối lớn cần phải có chứng chỉ quốc tế từ Mỹ, Úc hoặc Anh để chứng minh khả năng chịu cháy và động đất.
Mặc dù theo suy nghĩ của nhiều người hiện nay là gỗ thì có giá rất cao, thực tế, theo ông Nguyễn Phương – Phó Chủ tịch Hội Ngành Gỗ xây dựng TP HCM (SAWA) – thì tổng giá trị của công trình gỗ có thể không quá khác biệt so với công trình truyền thống nhờ vào tốc độ thi công và các giá trị bền vững khác.
Một rào cản lớn đối với việc áp dụng gỗ khối lớn tại Châu Á là chi phí nhập khẩu do vận chuyển. Do đó, việc phát triển nguồn cung gỗ địa phương là hướng đi tốt nhất để giảm giá thành và tăng tính cạnh tranh.
Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hồng Quân - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Tuần hoàn Đại học Quốc gia TP HCM - ủng hộ chiến lược này, đề xuất nên tận dụng các loại cây trồng trong nước như cây tràm, vì nó có giá trị sinh thái và khả năng cacbon hóa rất lớn. Cây tràm còn là một nguồn vật liệu giúp Việt Nam bớt phụ thuộc vào nguồn gỗ nhập khẩu. Ông Nguyễn Hồng Quân cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết nối giữa trồng rừng và công nghiệp chế biến để nâng cấp chuỗi giá trị, qua đó tạo ra nhiều giá trị khác, bao gồm hỗ trợ sinh kế cho người dân.
Từ góc độ thực tế của kiến trúc sư, ông Vũ Hoàng Kha – Nhà sáng lập và điều hành A+ Architects - chia sẻ triết lý thiết kế của văn phòng ông là theo đuổi tinh thần "kiệm" (tiết kiệm), không chỉ tiết kiệm năng lượng vận hành mà còn tiết kiệm trong giải pháp vật liệu. Các dự án của ông Vũ Hoàng Kha thể hiện việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng địa phương một cách triệt để, sử dụng đá khai thác ở mỏ cách đó hơn 1 km, lưới của người dân địa phương, và thậm chí cả lá khô ở nơi đó. Ông Vũ Hoàng Kha cũng áp dụng nhiều vật liệu tái chế, ví dụ như sử dụng lại các thanh nẹp từ hệ thống công nghiệp lò sấy gỗ cho hệ trần của một homestay tại Đà Lạt, hoặc sử dụng gỗ từ thùng ván công nghiệp cho nội thất.
Việc sử dụng các giải pháp kiến trúc thụ động và vật liệu tái chế, theo ông Vũ Hoàng Kha, không chỉ giảm tác động môi trường mà còn đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt: một công trình nhà ở của ông gần như không phải bật điện, không phải bật máy lạnh, giúp tối ưu hóa năng lượng vận hành hằng tháng.
Làm rõ hơn với phóng viên Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp, PGS TS Nguyễn Hồng Quân khẳng định rằng nếu các doanh nghiệp Việt Nam không thật sự chuyển đổi xanh, họ có thể mất khách hàng, đặc biệt khi các cơ chế thương mại quốc tế như Điều chỉnh Biên giới catbon (CBAM) của Châu Âu có hiệu lực.
Do đó, việc tận dụng công nghệ số để minh bạch hóa carbon, kết hợp với chiến lược phát triển nguồn cung vật liệu bền vững và địa phương như gỗ tràm, là con đường tất yếu để ngành xây dựng Việt Nam góp phần đạt được mục tiêu trung hòa catbon của cả nước.