Nhiều ý kiến đề nghị, cần phải nghiên cứu thật kỹ quy định đối với vấn đề thuế khoán ở mức doanh thu tính thuế nhằm tạo thuận lợi cho hộ nghèo, những hộ buôn bán nhỏ, đảm bảo cho vấn đề dân sinh.
Chính sách xóa bỏ thuế khoán đối với hộ kinh doanh nhỏ lẻ đang nhận được sự quan tâm với nhiều luồng ý kiến khác nhau.
Tạo môi trường minh bạch
Theo đó, việc bãi bỏ thuế khoán trong năm 2026 là một chính sách lớn, thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong cải cách hệ thống thuế. Bởi lẽ trong nhiều năm qua, hình thức thuế khoán dù mang lại sự đơn giản về thủ tục, đã bộc lộ nhiều bất cập. Cách áp dụng chủ yếu dựa trên ước tính, thiếu minh bạch, dẫn tới hiện tượng "khoán thấp, thu cao", làm nảy sinh tình trạng gian lận, trốn thuế, gây ra sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các hộ kinh doanh và doanh nghiệp chính thức. Điều này làm méo mó môi trường kinh doanh và tạo ra sự bất bình đẳng rõ rệt giữa các chủ thể cùng hoạt động trên thị trường.
Vì vậy, khi chính sách này được xóa bỏ, đồng thời với việc mức thuế áp dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thấp hơn, cộng thêm những chính sách ưu đãi như trong Nghị quyết số 198/2025/QH15 về giảm thuế trong 3 năm đầu được kỳ vọng sẽ từng bước thiết lập được một khung thuế công bằng, hợp lý và hoàn thiện hơn. Nguyên tắc là đã tham gia hoạt động kinh doanh thì cần được đối xử bình đẳng về nghĩa vụ thuế và trách nhiệm pháp lý.
Tuy nhiên, việc xóa bỏ thuế khoán cũng không tránh khỏi những thách thức, đặc biệt với nhóm hộ kinh doanh nhỏ lẻ, vốn quen hoạt động trong cơ chế đơn giản, ít minh bạch. Điều này có thể dẫn đến nguy cơ một số hộ kinh doanh nhỏ phải ngừng hoạt động do không đáp ứng được các yêu cầu mới. Đặc biệt là các hộ kinh doanh do phụ nữ, người dân tộc thiểu số hoặc người lớn tuổi làm chủ, với trình độ công nghệ còn hạn chế.
Không làm xáo trộn sinh kế
Liên quan tới vấn đề này, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc cho rằng, việc bỏ thuế khoán là hết sức đúng đắn, song Bộ Tài chính cần nghiên cứu để tham mưu cho cấp có thẩm quyền quy định về thuế khoán theo mức doanh thu tính thuế, tạo thuận lợi cho những hộ nghèo, những hộ buôn bán nhỏ và đảm bảo vấn đề dân sinh.
Ví dụ, đối với những hộ kinh doanh buôn bán nhỏ mà doanh thu dưới 1 tỷ thì "nên khoán", vì nếu xuất hóa đơn, hộ kinh doanh sẽ rất thiệt thòi, bởi các hộ buôn bán nhỏ không có hóa đơn đầu vào. Mà không có hóa đơn đầu vào thì không được hoàn thuế. Điều này ảnh hưởng đến những người nghèo, những người yếu thế.
Theo Phó Thủ tướng, bản chất thuế hộ có 3 khoản thuế là thuế môn bài (các hộ kinh doanh vẫn đóng bình thường), thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập cá nhân. Do vậy, nếu áp dụng chính sách thuế khoán với hộ có doanh thu nhỏ thì sẽ đảm bảo thuận lợi cho cơ quan thuế, cũng như hộ kinh doanh mà không thất thu ngân sách nhà nước. Còn đối với các hộ kinh doanh có doanh thu lớn, chẳng hạn trên 1 tỷ đồng và có địa điểm kinh doanh ổn định thì cần thu theo hóa đơn để vừa bảo đảm minh bạch, vừa chống thất thu, vừa tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh này lớn lên trở thành doanh nghiệp.
Đồng tình với quan điểm nêu trên, TS Nguyễn Thị Cẩm Giang, Giảng viên Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng nhận định, cải cách chính sách thuế đối với khu vực hộ kinh doanh là xu hướng tất yếu nhằm tăng cường minh bạch, công bằng và hiện đại hóa công tác quản lý thuế. Tuy nhiên, quá trình này cần được triển khai thận trọng, có lộ trình phù hợp với thực tiễn đời sống, tránh gây xáo trộn ảnh hưởng tới sinh kế của hàng triệu hộ kinh doanh, hàng triệu người.
“Đa phần các hộ kinh doanh nhỏ, doanh thu dưới 1 tỷ đồng chủ yếu là các hộ buôn bán nhỏ, hàng rong, quán nước, chợ cóc những mô hình sinh kế phổ biến tại Việt Nam. Nếu áp dụng hình thức tự kê khai, tự nộp thuế thay cho thuế khoán, nhóm này sẽ gặp nhiều khó khăn do hạn chế về trình độ công nghệ, thiếu hệ thống sổ sách kế toán, không có hóa đơn đầu vào, dẫn đến nguy cơ không được hoàn thuế và có thể phải ngừng hoạt động”, TS Nguyễn Thị Cẩm Giang phân tích.
Do vậy, để xây dựng chính sách thuế phù hợp và công bằng, vì mục tiêu “không bỏ ai ở lại phía sau”, cần thiết phải xác lập rõ tiêu chí nhận diện hộ kinh doanh, có thể bao gồm mức doanh thu dưới 1 tỷ đồng, tần suất hoạt động không thường xuyên, địa điểm kinh doanh không cố định... Qua đó, phân biệt rõ giữa hộ kinh doanh nhỏ lẻ, mưu sinh với các hộ kinh doanh có tổ chức, quy mô lớn hơn. Đây là cơ sở để áp dụng phương pháp tính thuế linh hoạt, tránh gây áp lực về thủ tục, chi phí cho nhóm người yếu thế.
Chuyên gia này nhấn mạnh, việc giữ chính sách thuế khoán đối với hộ kinh doanh có doanh thu dưới 1 tỷ đồng là cần thiết trong giai đoạn hiện nay, nhằm bảo vệ sinh kế cho hàng triệu người lao động, duy trì ổn định kinh doanh, an sinh xã hội và đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.