Toàn bộ công trình sưu tầm, nghiên cứu hơn 30 năm của nhà văn hóa dân gian Chăm, Raglai Nguyễn Hải Liên sẽ được hiến tặng...
Ngày 23-11-2019, nhà văn hoá dân gian Chăm, Raglai Nguyễn Hải Liên (nguyên Giám đốc sở Văn hóa – Thể thao và du lịch tỉnh Ninh Thuận, Chủ tịch Hội văn hóa Dân gian Ninh Thuận) sẽ hiến tặng toàn bộ công trình sưu tầm, nghiên cứu hơn 30 năm của ông về Văn hóa phi vật thể Chăm, Raglai cho Viện Văn Hóa Nghệ Thuật Quốc Gia Việt Nam với mong muốn Văn hóa dân gian sẽ tiếp tục đơm hoa kết trái.
Chúng tôi hẹn gặp ông trong một chiều thu tháng 11. In vào mắt chúng tôi là ông cụ ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy” có dáng người “gầy như không thể gầy hơn” đang ngồi gói ghém, sắp xếp lại toàn bộ những đứa con tinh thần của mình với hơn ngàn cuộn băng cattset, đĩa DVD, tranh ảnh, sách vở, tài liệu….với ánh mắt rưng rưng đầy lưu luyến!
Nhìn dáng vẻ gầy nhom của ông, tôi tự hỏi: sức mạnh nào giúp ông vượt qua những trở ngại của sức khỏe để vẫn làm việc, vẫn cống hiến dù ông đã có quyền được nghỉ ngơi? Chỉ có thể kể ra đây một vài công trình tiêu biểu, những dấu ấn đậm nét mà ông mang lại.
Bởi lẽ, làm sao kể hết hàng ngàn đường rừng đã in dấu chân ông, hàng ngàn buôn làng, dốc cao, sông suối in bóng hình ông, hàng trăm nghệ nhân ông đã nghe họ hát hàng đêm, hàng tháng dài hơn cả một đời người, hàng ngàn thước phim, tranh ảnh ông ghi, ông nhớ, như một bảo tàng sống của Văn hóa phi vật thể Chăm, Raglai từ âm nhạc, lễ hội, các làn điệu dân ca, đến nhạc cụ, trang phục cổ truyền và sử thi…
Hầu hết các Lễ hội Chăm đã được ông sưu tầm, phục dựng. Tất cả các bài bản của lễ nhạc (75 bài trống Ginăng và 6 giai điệu kèn Saranai đã được sưu tầm và kí âm). Đặc biệt, với nhạc cụ Chăm, ngoài trống Ginăng, Paranâng, kèn Saranai ông đã phát hiện ra bộ Trống thiêng loại nhỏ đi với 2 cái chiêng núm, kèn ru hồn Saranai và trống lớn thân cây, bộ nhạc cụ này chỉ xuất hiện trong hai lễ hội nên rất ít ngưởi biết đến.
Điểm đặc biệt ông mang lại đó là sự kết hợp giữa phát triển du lịch với bảo tồn di sản văn hóa dân tộc qua Lễ hội Festival Thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam) đã được quốc tế thích thú và thán phục. Ở đây, ông đã phục hiện lại các Lễ hội Chăm với cụm diễn xướng tổng hợp giữa Hát lễ - Nhạc lễ (hai vị chức sắc Mâduer và Kadhar) và Múa lễ (bà Bóng, ông Bóng) tạo nên nét đặc sắc hiếm có.
Cùng với việc sáng lập ra ba Đoàn nghệ thuật bán chuyên Chăm (Ninh Thuận, Bình Thuận, Mỹ Sơn – Quảng Nam), ông đã đưa văn hóa dân gian Chăm lên một tầm vóc mới: sang trọng hơn, tinh luyện hơn, có thể sánh cùng văn hóa các dân tộc anh em trên sân khấu chuyên nghiệp. Nhiều vở diễn, nhiều chương trình tham dự đạt giải cao do chính ông biên soạn, dàn dựng, tổ chức.
Với sử thi Raglai, bằng những cứ liệu sinh động, ông đã thuyết phục với Ban điều hành dự án Bộ Văn hóa – Thông tin – Truyền thông rằng người Raglai có sử thi và đã được công nhận. Sáu bộ sử thi đồ sộ đặc biệt là Bộ sử thi Sa-Ea có độ dài 37 cuộn băng cattset mỗi cuộn 90 phút là một minh chứng tuyệt vời.
Để có được nó là bao đêm thức ngồi nghe nghệ nhân hát kể ròng rã hàng tháng trời. Những câu chuyện dài như những nỗi niềm của núi rừng, ngọt như ước mơ, khát vọng của con sông, cái suối, rạo rực xốn xao như cái bụng người dân Bác Ái – Raglai.
Với nhạc cụ Mã la, ông cũng đã ghi âm và ký âm được 150 bài. Đồng thời có những nhạc cụ đã mất, ông không chỉ phát hiện mà còn khôi phục lại. Đó là Trống đất, Chiêng nứa, Kèn bầu Sarakel. Chắc chắn là những cái tên mọi người lần đầu được nghe đến. Nếu bạn muốn thưởng lãm xin mời về làng Yarot, làng Do xã Ma Nới (huyện Ninh Sơn) và làng Rô On (xã Phước Hà) tỉnh Ninh Thuận.
Có thể bạn quan tâm
00:23, 05/11/2019
11:15, 26/10/2019
22:15, 25/10/2019
Ròng rã sáu năm trời (từ 1995 đến 2001), nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Liên đã lặn lội khắp các buôn, làng người Raglai của ba tỉnh Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận để phát hiện, phục dựng trang phục cổ truyền người Raglai đã bị mai một, mất mát hàng chục năm qua.
Bao khó khăn, thử thách tưởng phải dừng bởi không một vết tích từ sách vở, tài liệu đến thực tế. Đồng bào Raglai người mặc đồ Chăm, người mặc đồ Kinh, có nơi phụ nữ còn cởi trần mặc váy… sau rất nhiều lần hi vọng rồi lại thất vọng ông đã gặp một phụ nữ Raglai trên núi cao mặc một bộ đồ đặc biệt mà theo nhiều dấu tích lần mò, tìm hiểu đã cho ông hi vọng đây chính là thứ mình tìm. Lại tiếp tục hành trình điền dã, sưu tầm, lấy ý kiến, dựa vào lời kể Sử thi về trang phục …nhiều hội thảo, nhiều cuộc trưng cầu để cuối cùng hôm nay người Raglai biết rằng trang phục cổ truyền của tộc người mình là có thực.
Không dừng lại ở vai trò một người nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian, với tình yêu, đam mê của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Hải Liên đã ấp ủ và trăn trở giấc mơ làm sao để ươm mầm cho cây Văn hóa dân gian ra hoa kết trái. Không làm được điều đó thì việc sưu tầm, bảo tồn, lưu giữ sẽ khó phát triển.
Chính vì vậy, ông đã vận động các tổ chức tài trợ địa phương và trung ương thực hiện các dự án truyền dạy văn hóa dân gian không chỉ trong các làng, xã mà đặc biệt là truyền dạy trong tộc, họ. Cứ thế, như một mạch nguồn tự nhiên tuôn chảy, như dòng sữa ngọt ngào thấm mát tâm hồn trẻ thơ…nhiều thanh niên Chăm, Raglai từ đây trở thành những nghệ sĩ đàn, hát không chuyên, nhiều em thành tài. Hơn 150 em khắp các buôn làng, cùng rất nhiều nghệ nhân đã giúp cho cây văn hóa dân gian Chăm, Raglai ra nhiều quả ngọt.
Với tất cả những gì ông đã cống hiến suốt 30 năm, ông đã được tặng nhiều huân, huy chương, nhiều bằng khen, giấy khen và các giải thưởng của Nhà nước mà tiêu biểu là giải thưởng cao quí: Giải thưởng Nhà nước năm 2017 về Văn hóa nghệ thuật - sưu tầm nghiên cứu văn hóa phi vật thể Chăm và Raglai .
Sau tất cả, điều ông tâm đắc nhất là khi chứng kiến những đứa trẻ ngồi bên mẹ, say sưa cùng hát, cùng đàn những giai điệu dân ca của dân tộc mình, người Chăm, người Raglai tự tin, tự hào, tự tôn “tôi là người Chăm, tôi là người Raglai”.
Niềm hạnh phúc nhất của ông là hàng đêm vẫn được nghe đâu đó cái réo rắt của kèn Saranai, cái bập bùng của Paranung, Trống Đất, cái âm vang của Mã la, Chiêng Nứa và dịu dàng, tha thiết của kèn bầu Sarakel. Ông cảm thấy ấm áp khi nhìn người Raglai mặc trang phục cổ truyền của họ, sẽ cùng núi rừng ngân nga mãi giai điệu Sa-Ea. Và Tôi hiểu vì sao người Chăm, người Raglai luôn gọi ông bằng một tiếng gọi yêu thương, ruột thịt “Bố Liên”!
Gặp ông, trò chuyện với ông, chúng tôi hiểu chính đam mê cháy bỏng mãi không ngừng chảy trong những giai điệu dân ca Gi năng, Saranai, Mã la, Sarakel là nguồn năng lượng rồi dào đưa ông vượt qua mọi khó khăn thử thách để tạo lập nên những công trình nghiên cứu có giá trị.
Trên hết, đó là tình yêu quê hương, đất nước, sẵn sàng hiến dâng cả tuổi thanh xuân bằng việc tình nguyện đi chiến trường B, bị địch bắt tù đày suốt 8 năm ở nhà từ Pleiku, Phú Quốc, là niềm đam mê dành cho nghệ thuật khi là một trong những thành viên đầu tiên tạo lập nên đoàn ca kịch bài chòi liên khu V, tình yêu ấy dẫn dắt ông một cách tự nhiên đến với văn hóa dân gian Chăm và Raglai để rồi càng tìm hiểu, càng say mê, niềm đam mê ấy biến thành liều thuốc tinh thần giúp ông vượt qua bạo bệnh. Sống bằng nghị lực, sống để khai phá, ông đã vực dậy cả một kho tàng văn hóa đồ sộ đang bị lãng quên!
Hôm nay, đến các làng Raglai vào dịp lễ, tết đều thấy các bà, các chị, các cháu học sinh “diện” trang phục truyền thống của dân tộc mình. Tại nhiều trường học trên địa bàn huyện Bác Ái (Ninh Thuận) đã đưa trang phục dân tộc vào làm đồng phục cho học sinh, giúp các em nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Nhìn ông sắp xếp những tư liệu cuối cùng trước khi bàn giao, chúng tôi nhận thấy lưng ông thêm còng xuống nhưng ánh mắt sáng ngời khi trong lòng thanh thản, tràn ngập niềm tin: các thế hệ mai sau sẽ gìn giữ, bảo tồn văn hóa dân gian vì văn hóa là gốc rễ của con người, văn hóa dân gian là cái hồn của cả một dân tộc!