Nhiều ý kiến cho rằng các khái niệm “công nghệ mới”, “công nghệ xanh” còn định tính, cần được lượng hóa và quy định rõ ràng để bảo đảm minh bạch và dễ áp dụng.
Dự thảo Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) đang được Quốc hội khóa XV thảo luận với kỳ vọng tạo hành lang pháp lý mạnh mẽ hơn để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực hấp thụ và làm chủ công nghệ. Với định hướng ưu tiên công nghệ mới, công nghệ xanh và chuyển đổi số, Dự thảo được đánh giá là bước tiến quan trọng để Việt Nam tiến gần hơn tới nền kinh tế xanh, hiện đại và bền vững. Tuy nhiên, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng một số khái niệm trong Dự thảo vẫn còn mang tính định tính, cần được quy định cụ thể hơn để tránh cách hiểu khác nhau khi áp dụng vào thực tiễn.

Chia sẻ quan điểm về vấn đề này, đại biểu Dương Khắc Mai, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cho rằng, khái niệm “công nghệ mới” được nêu tại khoản 4 Điều 2 vẫn mang tính mô tả, thiếu tiêu chí định lượng để nhận diện. Theo ông, việc chỉ nêu chung chung sẽ dẫn đến khó khăn khi xác định đối tượng được ưu tiên hay hỗ trợ.
Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo bổ sung các tiêu chí cụ thể như sự khác biệt về nguyên lý, quy trình hoặc thông số kỹ thuật so với công nghệ đang phổ biến; mức độ phổ biến trên thế giới; hay khả năng tạo ra giá trị gia tăng mới. “Cần giao Chính phủ quy định chi tiết tiêu chí và phương pháp phân loại theo từng lĩnh vực, nhằm tránh áp dụng tùy tiện và bảo đảm sự thống nhất trong quản lý”, đại biểu Dương Khắc Mai phân tích.
Đối với khái niệm “công nghệ xanh” tại khoản 5a Điều 2, đại biểu Dương Khắc Mai nhận định, dù nội dung Dự thảo đã đề cập đến các yếu tố cốt lõi như tiết kiệm tài nguyên, giảm phát thải, thân thiện môi trường, song cách diễn đạt vẫn chỉ dừng ở mục tiêu, chưa thể là căn cứ đánh giá kỹ thuật hay triển khai chính sách ưu đãi. Ông đề nghị Luật chỉ quy định nguyên tắc chung, còn các tiêu chí kỹ thuật cụ thể cần giao Chính phủ và các bộ liên quan ban hành theo từng lĩnh vực sản xuất. Cùng với đó, Dự thảo nên thống nhất chỉ sử dụng một thuật ngữ “công nghệ xanh”, tránh dùng song song “công nghệ sạch” gây chồng chéo và khó áp dụng.
Cùng chung quan điểm, đại biểu Nguyễn Văn Huy, Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên cho rằng, Dự thảo chưa phân biệt rõ công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý hay giải pháp quản lý, đây là những yếu tố quan trọng để xác định đúng đối tượng được hưởng cơ chế hỗ trợ. Ông nhấn mạnh kinh nghiệm quốc tế thường đánh giá công nghệ xanh theo vòng đời sản phẩm và chuẩn kỹ thuật cụ thể, vì vậy Dự thảo cần tiếp cận theo hướng tương thích với xu thế toàn cầu.
“Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hầu hết các nước đều gắn công nghệ xanh với các chuẩn mực kỹ thuật và đánh giá theo vòng đời sản phẩm. Do đó, tôi đề nghị không bỏ khái niệm này mà đề nghị quy định theo hướng ‘Công nghệ xanh là công nghệ được thiết kế, phát triển và ứng dụng nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng, giảm thiểu phát thải và chất thải trong toàn bộ vòng đời sản phẩm hoặc là quy trình sản xuất, thân thiện với môi trường và góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững’”, đại biểu Nguyễn Văn Huy đề xuất.

Tán thành cao với sự cần thiết sửa đổi Luật Chuyển giao công nghệ, song đại biểu Nguyễn Tâm Hùng, Đoàn ĐBQH TP Hồ Chí Minh bày tỏ băn khoăn về tiêu chí xác định công nghệ mới và công nghệ xanh tại khoản 2 Điều 21. Đại biểu cho rằng, việc bổ sung các khái niệm "công nghệ mới" và "công nghệ xanh" tại khoản 2 Điều 1 là cần thiết. Song, định nghĩa về công nghệ mới là chưa ứng dụng phổ biến tại Việt Nam, có nguy cơ tạo ra kẽ hở pháp lý cho việc nhập khẩu công nghệ đã lỗi thời trên thế giới.
“Đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung tiêu chí định lượng rõ ràng, yêu cầu công nghệ mới phải đạt trình độ tiên tiến theo chuẩn khu vực hoặc thế giới và công nghệ xanh phải dựa trên các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hoặc tiêu chuẩn ISO để bảo đảm tính minh bạch, tránh tùy tiện và kiểm soát chất lượng công nghệ nhập khẩu”, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng nhấn mạnh.