Việc hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường được xem là “chìa khóa” để Việt Nam vừa nâng cao hiệu lực quản lý, vừa thực hiện các cam kết quốc tế về phát triển bền vững.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế gắn liền với yêu cầu bảo vệ môi trường, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn và định mức kinh tế - kỹ thuật đang trở thành một nhiệm vụ cấp thiết. Đây không chỉ là công cụ quan trọng giúp cơ quan quản lý nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật mà còn là “tấm hộ chiếu” để doanh nghiệp hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời bảo đảm cam kết quốc tế về phát triển bền vững.
Thời gian qua, các bộ, ngành và địa phương đã tích cực rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý và bảo vệ môi trường. Nhiều văn bản đã phát huy hiệu quả, góp phần chuẩn hóa hoạt động quản lý, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật. Tuy vậy, thực tiễn vẫn bộc lộ nhiều hạn chế.
Cụ thể, một số lĩnh vực còn thiếu quy chuẩn, tiêu chuẩn, đặc biệt là các vấn đề mới nổi như biến đổi khí hậu, tín chỉ carbon, kinh tế tuần hoàn. Một số quy định còn chồng chéo, thiếu đồng bộ, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn khi áp dụng. Không ít tiêu chuẩn chưa gắn với yêu cầu thị trường và thông lệ quốc tế, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. Các định mức kinh tế - kỹ thuật trong dịch vụ môi trường nhiều nơi chưa được cập nhật, chưa theo kịp biến động về công nghệ và giá cả.
Theo ông Nguyễn Văn Khôi, Ủy ban Tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả quản lý, Việt Nam cần sớm rà soát, đồng bộ hóa hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, tránh chồng chéo giữa Luật Tiêu chuẩn - Quy chuẩn kỹ thuật với Luật Bảo vệ môi trường và các luật liên quan. Song song với đó là phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia, nâng cao năng lực thử nghiệm, giám định, quan trắc môi trường theo chuẩn mực quốc tế, có lộ trình rõ ràng phục vụ hội nhập.
Trong định hướng, có 3 nhóm ưu tiên then chốt: xây dựng tiêu chuẩn cho khí thải, nước thải, chất thải nguy hại và phát thải khí nhà kính; thúc đẩy tiêu chuẩn hóa trong năng lượng tái tạo, vật liệu tái chế; đồng thời đảm bảo hài hòa các quy chuẩn trong nước với bộ tiêu chuẩn ISO, IEC, EN nhằm đáp ứng các cam kết Net-Zero vào năm 2050 tại Hội nghị COP26 cũng như các hiệp định thương mại quốc tế.
“Bên cạnh đó, việc ứng dụng chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia kết nối hệ thống quan trắc môi trường, tích hợp AI và Big Data để phân tích, cảnh báo sớm rủi ro môi trường được coi là xu hướng tất yếu”, ông Khôi nhấn mạnh.
Đáng nói, nếu như cơ quan quản lý nhà nước giữ vai trò then chốt trong việc xây dựng, ban hành và hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường thì cộng đồng doanh nghiệp lại là lực lượng trực tiếp hiện thực hóa các quy định này trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng các mô hình kinh tế tuần hoàn, biến chất thải thành tài nguyên, qua đó không chỉ giảm gánh nặng môi trường mà còn tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế. Một trong những ví dụ điển hình là lĩnh vực xử lý và tái sử dụng tro xỉ từ các nhà máy nhiệt điện – vấn đề vốn được coi là “bài toán nan giải” nhiều năm qua.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết, hệ thống điện Việt Nam hiện vẫn phụ thuộc lớn vào nhiệt điện than, kéo theo khối lượng tro, xỉ thải ra rất lớn. Trước đây, tro xỉ chủ yếu bị coi là chất thải, gây áp lực cho môi trường. Nhưng từ năm 2015 đến nay, EVN đã chuyển hướng mạnh mẽ, coi tro xỉ là nguồn nguyên liệu đầu vào cho ngành vật liệu xây dựng.
Theo ông Tuấn, nếu năm 2015 lượng tro, xỉ mới tiêu thụ được khoảng 33% thì từ 2022 đến nay, tỷ lệ tiêu thụ luôn vượt trên 100%, bao gồm cả xử lý lượng tồn lưu trước đó. Riêng 8 tháng đầu năm 2025, tổng khối lượng phát sinh 4,57 triệu tấn thì đã tiêu thụ được 5,31 triệu tấn, đạt 116%. Các nhà máy phía Bắc như Quảng Ninh, Hải Phòng, Mông Dương 1 hay Nghi Sơn 1 đều đạt tỷ lệ tiêu thụ vượt xa 100%, góp phần giảm dần khối lượng tro xỉ tồn trữ tại bãi chứa.
Tuy nhiên, đại diện EVN cũng nhấn mạnh, khó khăn vẫn tồn tại, nhất là tại khu vực phía Nam, nơi khoảng cách vận chuyển xa, chi phí logistics cao, và việc sử dụng tro xỉ cho nền đường giao thông chưa được triển khai rộng rãi. Do đó, EVN kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành sớm ban hành cơ chế khuyến khích tái sử dụng tro xỉ, đồng thời quy định tỷ lệ bắt buộc trong các công trình xây dựng, giao thông.