Cải tạo, chỉnh trang đô thị trở thành một xu hướng tất yếu nhằm cải thiện môi trường sống và nâng cao chất lượng sống đô thị, hướng đến phát triển bền vững.

Trong bối cảnh Chính phủ đang triển khai Chiến lược phát triển đô thị quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cùng với việc thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam, việc cải tạo, chỉnh trang đô thị là nội dung rất cần thiết, cấp bách, cần có sự tham gia của các cấp, ngành và cộng đồng dân cư.
Bài học rút ra từ cải tạo đô thị ở các nước trên thế giới cho thấy “chìa khóa” của sự thành công nằm ở quy hoạch tổng thể, sự đồng thuận và tham gia của cộng đồng, và định hướng phát triển đô thị bền vững. Thụy Điển ban hành Đạo luật hợp tác phát triển năm 1987 tạo cơ hội cho vấn đề cải tạo đô thị và phát triển dưới sự quản lý của tư nhân, cộng đồng mà không cần phải thu hồi hoặc đền bù đất đai của các chủ đất trong quá trình cải tạo xây dựng.
Bắt đầu từ những năm 1990, Chính quyền thành phố Thượng Hải đã công bố một loạt chính sách nhằm tái phát triển các khu phố đổ nát, bao gồm cả những khu nhà ở có chất lượng kém (Chương trình 365 nhằm tái phát triển 365 ha các khu nhà ở dột nát). Để tăng tốc độ thực hiện và có nguồn lực thực hiện, việc cho thuê đất để làm nhà ở đối với người nước ngoài đã được đặt ra như một dự án thí điểm thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án tái tạo đô thị. Để có được một đô thị chất lượng sống tốt, tỷ lệ diện tích sàn (FAR), tỷ lệ không gian xanh, giới hạn chiều cao và các thông số kỹ thuật cho từng khối nhà đã được tính toán cụ thể để vừa đảm bảo yêu cầu bảo tồn, cải tạo và tái phát triển thành các địa điểm giải trí và thương mại. Lợi tức đầu tư từ nhà ở được hỗ trợ xây dựng công viên và hồ Taipingqiao, làm tăng không gian xanh, không gian công cộng ở trung tâm thành phố Thượng Hải.

Ở Nhật Bản yêu cầu có 2/3 số hộ, đại diện cho 2/3 diện tích đất của khu vực là đủ điều kiện tiến hành dự án tái phân thửa tự nguyện. Tùy theo loại dự án nhưng phần lớn tiện nghi chung được chính quyền địa phương tài trợ, hỗ trợ xây dựng. Ban quản lý dự án phải tự cân đối về vấn đề đền bù giữa các hộ và tuân thủ các yêu cầu về kiểm soát phát triển và phát triển công trình hạ tầng.
Bài học cho Việt Nam
Có một số bài học rút ra trong cải tạo đô thị tại Việt Nam.
Thứ nhất, cần đặt lợi ích và nhu cầu của thành phố và người dân đô thị lên hàng đầu nhằm đảm bảo chất lượng sống, an sinh xã hội và khả năng tiếp cận các lợi ích cơ bản. Ví dụ ở thành phố Copenhagen – Đan Mạch, chuyển đổi không gian đô thị để ưu tiên người đi bộ và xe đạp, thay vì xe ô tô.
Thứ hai, cần có các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, cơ chế chính sách cải tạo ô phố, khu dân cư hiện hữu. Như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan đều có luật riêng quy định về tái thiết đô thị.
Thứ ba, cải tạo đô thị gắn với bảo tồn di sản đô thị. Di sản văn hóa phải được coi là một tài sản, có thể nâng cao bản sắc của một đô thị, làm gia tăng giá trị tài sản, như Paris (Pháp) đã giữ lại các công trình kiến trúc có giá trị.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ hiện đại trong quá trình cải tạo đô thị. Cần tái sử dụng hạ tầng, tận dụng và cải tạo lại các khu vực, công trình bị bỏ hoang để tạo ra giá trị mới. Quá trình cải tạo đô thị cũng cần chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường, bảo tồn tài nguyên và không gian xanh. Ví dụ, Singapore kết hợp giữa phát triển, cải tạo đô thị với phủ xanh thành phố, xây dựng công trình tiết kiệm năng lượng.
Thứ năm, tăng cường phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương; quy định chặt chẽ hơn về điều chỉnh cục bộ quy hoạch, làm rõ nguồn kinh phí cho công tác quy hoạch và quy định về công khai quy hoạch với các nội dung cụ thể. Ngoài ra, huy động sự tham gia của cộng đồng, có sự giám sát của cộng đồng trong quá trình cải tạo đô thị. Như dự án tái thiết các khu nhà ổ chuột ở Medellin (Colombia) thành công nhờ lấy ý kiến của cộng đồng và cải thiện dịch vụ công.
Quan trọng, để quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị, cần chuyển từ tư duy “quy hoạch cho từng đô thị” sang “quy hoạch cho hệ thống đô thị”, bảo đảm tính liên kết vùng, tính mở, và khả năng thích ứng trong bối cảnh phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng.