Thủ tướng vừa có công điện yêu cầu triển khai các giải pháp đáp ứng chính sách xanh của EU. Chuyển đổi xanh một cách đồng bộ và toàn diện tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp.
EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU đạt 51,66 tỷ USD, tăng 18,5% so với năm 2023 và EU là đối tác Việt Nam luôn đạt thặng dư thương mại cao.
Theo Thỏa thuận xanh của Ủy ban Liên minh châu Âu, nhiều thách thức yêu cầu doanh nghiệp Việt phải đáp ứng tiêu chuẩn xanh trước khi đưa hàng vào thị trường này.
Mặt khác, là cơ hội để doanh nghiệp có động lực chuyển đổi xanh, nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng thị trường sản phẩm xanh, bền vững. Ứng phó, đáp ứng các tiêu chuẩn Thỏa thuận xanh của EU, thông qua hàng loại giải pháp triển thúc đẩy doanh nghiệp, tiêu dùng mà Thủ tướng Chính phủ đặt ra tại công điện số 17/CĐ-TTg, nhìn rộng hơn, không chỉ là giải pháp để đáp ứng một thị trường trọng điểm. Bởi xu hướng đạt tiêu chuẩn xanh đã, đang và sẽ là con đường mà doanh nghiệp và cả nền kinh tế đang có sự dịch chuyển và bắt buộc dịch chuyển, để thực thi cam kết của Việt Nam tại COP26.
Qua đó, khẳng định vị thế Việt Nam trong chuỗi cung ứng bền vững, hội nhập toàn cầu. Năm 2025, ngành da giày đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 10% so với năm 2024 với kim ngạch khoảng 29 tỉ USD, trong đó EU chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu - tiếp tục xác định là thị trường trọng điểm của ngành.
Bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội da giày túi xách Việt Nam (Lefaso) cho biết: ngành da giày túi xách có nhiều cơ hội mở rộng thị phần xuất khẩu vào EU song phải nhìn nhận thị trường lớn này rất khó tính, đòi hỏi tính tuân thủ rất cao của doanh nghiệp. “Chúng tôi vẫn nói rằng, các doanh nghiệp đang phải đi trên đường cao tốc, tính trách nhiệm và tuân thủ cần nâng cao để đáp ứng một số yêu cầu phức tạp hơn về lao động, môi trường, quy tắc xuất xứ, minh bạch toàn bộ quá trình sản xuất.
Thách thức lớn nhất với ngành da giày đảm bảo tính bền vững trong sản xuất, yêu cầu về trách nhiệm xã hội…” - bà Phan Thị Thanh Xuân nói.
Đại diện nhiều ngành hàng, doanh nghiệp đều bày tỏ e ngại trước những thách thức mới liên tục đến từ các chính sách trong Thoả thuận xanh của thị trường này đối với hàng hóa nhập khẩu. Những chính sách xanh này đang được EU từng bước thực thi đã và đang tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tác động này được nhìn từ 3 góc độ: gia tăng tiêu chuẩn xanh với các sản phẩm hàng hoá xuất khẩu; tăng trách nhiệm tài chính xanh với các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất; tăng trách nhiệm giải trình về nguồn gốc sản phẩm cũng như những yêu cầu liên quan đến tác động môi trường trong quá trình sản xuất, sử dụng và thải bỏ sản phẩm.
Đặc biệt, mỗi nhóm hàng hoá, sản phẩm lại chịu tác động từ một hoặc một số nhóm chính sách khác nhau. Điển hình như Cơ chế CBAM áp dụng đến một số lĩnh vực phát thải lớn trong lĩnh vực công nghiệp; Kế hoạch hành động nền kinh tế tuần hoàn (CEAP) tác động đến ngành thiết bị điện tử, công nghệ thông tin, bao bì, nhóm nhựa, dệt may, da giày…
Với nhóm ngành nông sản, theo Văn phòng SPS Việt Nam, một số sản phẩm ngoài việc phải đáp ứng các quy định: SPS liên quan đến kiểm tra an toàn thực phẩm và kiểm dịch, phụ gia thực phẩm…; rào cản kỹ thuật thương mại TBT còn phải đáp ứng những quy định mang tính riêng biệt như Quy định không gây mất rừng (EUDR) dự kiến áp dụng trong năm 2025.
Theo Vụ thị trường châu Âu - châu Mỹ (Bộ Công Thương), sản phẩm xuất khẩu không đáp ứng những quy định, tiêu chuẩn sẽ khó thâm nhập được vào thị trường EU. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư sản xuất, phải thay đổi quy trình sản xuất, quy trình quản lý. Nguồn lực đầu tư lớn có thể khiến chi phí sản xuất tăng, tác động đến giá thành sản phẩm, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ông Nguyễn Phương Nam - Chuyên gia đánh giá quốc tế của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu đánh giá: để đảm bảo tính cạnh tranh, bắt buộc các doanh nghiệp phải chuyển đổi xanh. Để sản xuất hàng hoá đảm bảo xanh, sạch, đáp ứng các yêu cầu truy xuất nguồn gốc quả là rất khó với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp SME. Vì vậy, hàng hoá sản phẩm được cấp chứng nhận xanh của EU không dễ dàng nhưng không có nghĩa là không làm được nếu doanh nghiệp thực sự bắt tay vào thực hiện ngay cùng với sự đồng hành, hỗ trợ nguồn lực từ các bộ, ngành, các tổ chức.
Theo Chuyên gia đánh giá quốc tế của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, với hệ thống quy định, chính sách xanh phức tạp, liên tục được cập nhật, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp là khả năng tiếp cận thông tin, thông số kỹ thuật để chứng minh sản phẩm xanh. Trong khi đó, để đáp ứng được thông số kỹ thuật từ các quy định xanh của EU, doanh nghiệp cần đầu tư và trải qua lộ trình dài, có thể từ 3-7 năm.
Đồng quan điểm, đại diện lãnh đạo Lefaso cho biết thêm, trong khi thời điểm thực thi chính sách xanh đang rất gần và đang làm ráo riết ở các thị trường xuất khẩu thì việc tiếp cận thông tin chính sách của doanh nghiệp còn hạn chế. Về chủ trương, quy định chung có thể doanh nghiệp có thể tiếp cận nhưng để thông hiểu đầy đủ nội hàm của quy định, lộ trình thực hiện, các hành động cần chuẩn bị để thích ứng… doanh nghiệp hầu như chưa có nhiều do các thông tin đang rời rạc, chưa hệ thống.
Từ thực tế đó, bà Xuân kiến nghị, các bộ ngành chức năng, các địa phương có kế hoạch, hướng dẫn thống nhất để các hiệp hội thuận tiện trong việc cập nhật thông tin, đào tạo, hướng dẫn doanh nghiệp cách thức, xây dựng chiến lược đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật theo xu hướng mới. Đồng thời, ban hành các đánh giá phù hợp, thực thi các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp cụ thể để sớm tận dụng lợi thế từ các FTA, trong đó có FTA với EU, giúp doanh nghiệp giữ vững thị phần, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Bên cạnh đó, các tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường đòi hỏi ngày càng cao, chi phí tuân thủ của doanh nghiệp ngày càng lớn. Do đó, đại diện Lefaso cho rằng, các bộ, ngành có liên quan cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tinh gọn đầu mối quản lý chuyên ngành nhằm giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp.