Di tích lịch sử “độc nhất vô nhị” về tình hữu nghị

TS Ngô Tự Lập Viện - Quốc tế Pháp ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội 18/09/2021 03:30

Ba Vì có ngọn núi thiêng, ngày nay là đất sữa, đồng thời cũng là một nơi du lịch nổi tiếng.

Nhưng ít người biết rằng tại đây có một di tích lịch sử độc đáo bậc nhất trên thế giới: đó là chiếc Cổng Maroc, một công trình mang phong cách Ả-rập trong lòng nước Việt.

Cổng Ma Rốc cũng như ý nghĩa của nó là “độc nhất vô nhị”, chỉ có ở Việt Nam, qua đó cho thấy tình hữu nghị, gắn bó giữa con người của hai dân tộc.

Cổng Ma Rốc cũng như ý nghĩa của nó là “độc nhất vô nhị”, chỉ có ở Việt Nam, qua đó cho thấy tình hữu nghị, gắn bó giữa con người của hai dân tộc.

Vượt qua sự tàn phá của chiến tranh, thời gian và cả con người, chiếc cổng may mắn vẫn còn nguyên vẹn, trở thành nhân chứng của một cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa những con người khác màu da, tiếng nói và văn hóa, bị chiến tranh đế quốc và những éo le của lịch sử cuốn đến xứ này. 

Từ câu chuyện xúc động... 

Đằng sau câu chuyện xúc động này là bóng dáng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có hai điều tôi muốn nói. Thứ nhất là tinh thần quốc tế. Trong những năm hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc hợp tác rất thân thiết các nhà cách mạng đến từ rất nhiều nước. Anh là một trong những người sáng lập và là thành viên Ban chấp hành Hội liên hiệp thuộc địa (thành lập năm 1921). Trong số di sản của Nguyễn Ái Quốc có rất nhiều bài về các dân tộc anh em. Tinh thần nhân loại rộng lớn ấy đi theo Hồ Chí Minh đến hơi thở cuối cùng: cuốn sách cuối cùng trên bàn làm việc của ông ngày 2/9/1969 là cuốn Người da đen cầm súng.

Thứ hai là quan điểm về chiến tranh. Có lẽ Hồ Chí Minh là người duy nhất đặt tên quân đội của mình là đội quân “tuyên truyền” chứ không phải là “võ trang”. Trong Chỉ thị thành lập đội Việt Nam truyên truyền giải phòng quân, ông viết: “Tên ĐỘI VIỆT NAM TRUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền” .

Ông M’hamed Ben Aomar Lahrach cùng vợ. Chính Hồ Chủ tịch đã đặt tên Việt cho ông là Nguyễn Chiến Ma, hay Anh Mã, hàm ý một bậc “Mã thượng”, đồng thời cũng gợi đến Maroc quê hương ông.

Ông M’hamed Ben Aomar Lahrach cùng vợ. Chính Hồ Chủ tịch đã đặt tên Việt cho ông là Nguyễn Chiến Ma, hay Anh Mã, hàm ý một bậc “Mã thượng”, đồng thời cũng gợi đến Maroc quê hương ông.

Xin hãy trở lại chủ đề của chúng ta.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng người Pháp không muốn từ bỏ tham vọng tái lập chế độ thuộc địa. Kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Trong chiến tranh, hàng trăm ngàn lính Lê dương, trong đó có khoảng 50 nghìn lính Bắc Phi, được Pháp đưa đến tham chiến ở Việt Nam.

Theo chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, công tác địch vận được đặc biệt chú trọng. Nhờ vậy, hàng ngàn lính Lê dương Âu – Phi đã nhận ra bản chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh, rời bỏ quân đội Pháp và tình nguyện chiến đấu cùng quân dân Việt Nam. Họ được gọi là những người “Việt Nam mới”. Có khoảng 800 người Nhật, hàng ngàn người châu Phi và châu Âu đã trở thành những người “Việt Nam mới” như thế. Họ hỗ trợ Việt Minh rất nhiều trong việc huấn luyện quân sự, sửa chữa vũ khí trang bị, đào tạo ngoại ngữ và làm báo tuyên truyền. Không chỉ được đối xử nhân đạo, tù binh và hàng binh còn được giác ngộ và tổ chức vào các đội Commando William (đa số là người Đức) và Đội Bắc Phi độc lập (Détachement de l’Indépendance Nord-Africaine, DINA). Đội DINA có mục đích là huấn luyện cho hàng binh Bắc Phi để sau này trở về giải phóng tổ quốc.

Năm 1950, đáp lại lời đề nghị của Hồ Chủ Tịch, Đảng Cộng sản Maroc cử ông M’hamed Ben Aomar Lahrach, tức Maarouf, một Ủy viên trung ương đảng, sang chiến đấu cùng nhân dân Việt Nam. Chính Hồ Chủ tịch đã đặt tên Việt cho ông là Nguyễn Chiến Ma, hay Anh Mã, hàm ý một bậc “Mã thượng”, đồng thời cũng gợi đến Maroc quê hương ông. Anh Mã đã cảm hóa được nhiều binh lính Âu Phi, đóng góp to lớn vào cuộc kháng chiến của Việt Nam. Đối với những người lính Bắc Phi, Anh Mã trở thành một huyền thoại. Anh ở lại Việt Nam cho đến năm 1961.

Từ năm 1950, hàng binh Âu-Phi được tổ chức thành các Đội sản xuất, phần để đảm bảo an toàn, phần khác góp phần ổn định đời sống. Sau 1954, do vị thế đặc biệt của họ, nhiều hàng binh Âu Phi không thể hồi hương: Một số hàng binh châu Âu bị chính quốc kết tội, còn các hàng binh Châu Phi thì do Tổ quốc họ vẫn chưa được giải phóng. Hồ Chủ tịch chỉ đạo thành lập “Tập thể sản xuất Ba Vì”, năm 1963 đổi tên thành “Nông trường Việt Phi Ba Vì”. Nông trường tiếp nhận hơn 300 hàng binh thuộc hơn 20 quốc tịch châu Âu và châu Phi, trong đó 200 người lấy vợ Việt. Ngoài ra Nông trường cũng tiếp nhận một số bà con Việt kiều hồi hương từ Thái Lan và Nouvelle Calédonie cùng với khoảng 100 công nhân Việt Nam.

Họ cùng nhau khai hoang, nuôi bò sữa, trồng trọt để nâng cao đời sống, mặc dù đời sống vật chất và tinh thần của họ được nhà nước ưu tiên đảm bảo ở mức cao nhất trong điều kiện chiến tranh. Trong kháng chiến chống Mỹ, các gia đình của Nông trường Việt Phi được sơ tán lên Yên Bái. Vượt qua những bi kịch thời đại, họ tạo dựng nên một cộng đồng quốc tế hiếm có của tình bạn, lòng khoan dung và tình yêu không biên giới. Theo thời gian, những người “Việt Nam Mới” dần dần được hồi hương. Nhiều phụ nữ Việt Nam cũng theo chồng con về nước. Rời Việt Nam cuối cùng là những người Maroc (1972).

Anh Mã nhận huy chương của Việt Nam.

Anh Mã nhận huy chương của Việt Nam.

… đến chiếc cổng huyền thoại

Chiếc cổng Maroc do các hàng binh Âu-Phi, trong đó đa số là người Maroc, xây dựng năm 1956 theo sáng kiến của Anh Mã. Chiếc cổng cao tám thước, có bốn trụ tròn vững chãi, đỡ ba vòm lớn trang trí bằng họa tiết của những thành lũy Arab cổ xưa. Ý tưởng là đem chiếc cổng làng truyền thống của Bắc Phi đến Ba Vì để những người lĩnh Ả-rập cảm thấy như mình bớt nhớ quê hương. Là một di tích lịch sử của tình đoàn kết chống chủ nghĩa thực dân và tình hữu nghị liên lục địa, chiếc cổng cũng là một nhịp cầu nghệ thuật kết nối Việt Nam với Maroc, với châu Phi và thế giới nói chung.

Cổng resort EduLand mô phỏng cổng Maroc.

Cổng resort EduLand mô phỏng cổng Maroc.

Rất nhiều cựu chiến binh Âu Phi và con cháu họ đã trở lại thăm chiếc Cổng huyền thoại. Năm 2008, Thủ tướng Maroc Abaddi Nejaned đã đến thăm Cổng Maroc. Năm 2018, công trình được thành phố Hà Nội tu bổ và gắn thêm trên vòm cổng dòng chữ “Cổng Ma Rốc” bằng tiếng Việt, tiếng Ả rập và tiếng Anh. Đến thăm chiếc cổng, ông El Mostafa El KTIRI, chủ tịch hội hữu nghị Maroc- Việt Nam phát biểu: “Cổng Ma-rốc ở Ba Vì vẫn còn đó như một di tích lịch sử do những người lính Maroc xây dựng lấy cảm hứng từ phong cách kiến trúc của người Ma-rốc trên đất Việt, với những nguyên vật liệu của Việt Nam. Và ký ức này không chỉ là của một cá nhân hay trải nghiệm của riêng ai mà nó là một phần trong Di sản lịch sử chung của Ma-rốc và Việt Nam”.

Câu chuyện về chiếc cổng Maroc còn có một cái kết có hậu. Được chiếc cổng gợi cảm hứng, năm 2018, doanh nhân Ngô Văn Phúc, con rể một cán bộ cũ của nông trường Việt – Phi cho xây một phiên bản khác của nó tại khu du lịch EduLand cũng ở dưới chân núi Ba Vì. Còn ở Maroc, đại sứ quán Việt Nam và chính phủ Maroc đang có kế hoạch xây một chiếc cổng làng Việt Nam tại làng của những gia đình Maroc -Việt.

(0) Bình luận
Nổi bật
Mới nhất
Di tích lịch sử “độc nhất vô nhị” về tình hữu nghị
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO